TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ YÊN
BẢN ÁN 78/2019/HS-PT NGÀY 12/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 12 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 72/2019/TLPT-HS ngày 02 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo Diệp Từ Phi do có kháng cáo của bị cáo Diệp Từ Phi đối với Bản án sơ thẩm số: 56/2019/HS-ST ngày 30/08/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên.
- Bị cáo có kháng cáo: Diệp Từ Ph, sinh năm 1988; tại tỉnh Phú Yên. Nơi cư trú: phường 1, thành phố T, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Diệp Thế L (chết) và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1959; có vợ Võ Thị Thảo M, sinh năm 1983; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 01/11/2012, bị Công an thành phố T xử phạt vi phạm hành chính số tiền 2.500.000 đồng về hành vi “Trồng cây cần sa và sử dụng trái phép chất ma túy”, nộp phạt ngày 07/6/2019; tạm giữ từ ngày 29/3/2019 đến 04/4/2019; bị cáo tại ngoại; có mặt.
Trong vụ án còn có bị cáo Nguyễn Thị N nhưng không có kháng cáo, không bị kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Do không có việc làm ổn định nên Nguyễn Thị N nảy sinh ý định mua ma túy để bán lại cho các đối tượng nghiện kiếm lời. Từ tháng 02/2018 đến tháng 02/2019, Nga điện thoại liên hệ với người đàn ông tên “Cu” (không rõ lai lịch) ở Thành phố Hồ Chí Minh để mua ma túy. Nga và người đàn ông tên “Cu” thỏa thuận: N chuyển tiền mua ma túy thông qua dịch vụ vận tải của Doanh nghiệp C. Sau khi nhận tiền của N thì “Cu” gửi ma túy thông qua các tuyến xe khách Nam – Bắc và N đến ngã tư Quốc lộ 1A giao với Quốc lộ 25 thuộc huyện P, tỉnh Phú Yên để nhận gói hàng chứa ma túy. Với cách thức nên trên, N đã mua ma túy đá của “Cu” tổng cộng 03 lần. Sau khi nhận được ma túy, N phân lẻ bán cho các đối tượng nghiện, trong đó nhiều lần bán cho Diệp Từ Ph để kiếm lời.
Khoảng 14 giờ ngày 29/3/2019, Diệp Từ Ph đến chỗ ở của Nguyễn Thị N mua một gói ma túy có trọng lượng 0,128 gram với giá 300.000 đồng để sử dụng. Sau khi đưa tiền, Ph cất giấu gói ma túy trong quần thì bị bắt quả tang. Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Thị N phát hiện, thu giữ 2,942 gram chất ma túy.
Tại kết luận giám định số: 53/GĐ-PC09 ngày 03/4/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Yên kết luận: Số mẫu vật mà cơ quan điều tra thu giữ tại nhà của Nguyễn Thị N là gói ma túy trong túi quần của Diệp Từ Ph có tổng khối lượng 3,070 gram loại ma túy Methamphetamine.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 56/2019/HSST ngày 30/8/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Tuy Hòa đã tuyên Diệp Từ Ph phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng Điểm c, Khoản 1, Khoản 5 Điều 249; Điểm s, Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; phạt Diệp Từ Ph 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, nhưng được trừ thời gian đã tạm giữ từ ngày 29/3/2019 đến ngày 04/4/2019; phạt bổ sung Diệp Từ Ph 5.000.000 đồng.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn phạt bị cáo Nguyễn Thị N 07 năm tù; tuyên phần hình phạt bổ sung, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 12/9/2019, bị cáo kháng cáo xin hưởng án treo.
Tại phiên tòa, bị cáo Diệp Từ Ph vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản án sơ thẩm đã tuyên.
Kiểm sát viên phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Không chấp nhận kháng cáo – Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Lời khai nhận tội của bị cáo Diệp Từ Ph tại Cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm đều phù hợp với nhau, phù hợp với các tài liệu là chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Khoảng 14 giờ ngày 29/3/2019 tại phường 1, thành phố T, tỉnh Phú Yên. Diệp Từ Ph có hành vi mua của Nguyễn Thị N 0,128 gam Methamphetamine với giá 300.000 đồng, cất giấu trong túi quần để sử dụng thì bị bắt quả tang. Nên cấp sơ thẩm đã truy tố, xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái pháp chất ma túy” theo Điểm c, Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng tội.
[2] Khi lượng hình án sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất của vụ án, xem xét nhân thân và áp dụng đầy đủ tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng, để phạt bị cáo 01 (một) năm tù; đồng thời không cho bị cáo hưởng án treo là phù hợp, đáp ứng được yêu cầu phòng chống tội phạm tại địa phương. Do đó, bị cáo kháng cáo xin hưởng án treo là không có cơ sở nên không chấp nhận; mà chấp nhận quan điểm của Kiểm sát viên – Giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt để có đủ thời gian cải tạo, giáo dục bị cáo.
[3] Bị cáo Diệp Từ Ph kháng cáo không được chấp nhận phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo hoặc kháng nghị cấp phúc thẩm không xem xét.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Diệp Từ Ph phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Căn cứ Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo – Giữ nguyên bản án sơ thẩm;
Áp dụng Điểm c, Khoản 1, Khoản 5 Điều 249; Điểm s, Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Phạt: Bị cáo Diệp Từ Ph – 01 (Một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, nhưng được trừ vào thời gian đã tạm giữ từ 29/3/2019 đến 04/4/2019.
Phạt bổ sung bị cáo Diệp Từ Ph nộp một lần 5.000.000đ (Năm triệu đồng).
Áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức, thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
Bị cáo Diệp Từ Ph phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 78/2019/HS-PT ngày 12/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 78/2019/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Phú Yên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về