Bản án 78/2019/DS-ST ngày 13/11/2019 về tranh chấp hợp đồng góp hụi và vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ DẦU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 78/2019/DS-ST NGÀY 13/11/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI VÀ VAY TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gò Dầu xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 346/2019/TLST-DS ngày 01 tháng 10 năm 2019 về việc “Tranh chấp hợp đồng góp hụi và vay tài sản”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 96/2019/QĐXXST-DS ngày 22 tháng 10 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1962

Địa chỉ: Tổ 17, ấp CA, xã C, huyện G, tỉnh T.

- Bị đơn: Chị Võ Hồng D, sinh năm 1999

Địa chỉ: Ấp B, xã TĐ, huyện G, tỉnh T;

Tm trú: Tổ 40, ấp CA, xã C, huyện G, tỉnh T. Bà L, chị D có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 26-9-2019 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị L trình bày:

Chị D có tham gia 02 dây hụi do bà làm chủ thảo và còn nợ lại tiền hụi chết, gồm:

- Dây 2.000.000 đồng/tháng khui ngày 10-01-2018 gồm 22 phần, mãn ngày 10-10-2019. Chị D tham gia 01 phần, hốt hụi ngày 10-3-2018 với số tiền kêu hụi là 600.000 đồng được số tiền 29.600.000 đồng;

- Dây 2.000.000 đồng/tháng khui ngày 10-10-2018 gồm 23 phần, mãn ngày 10-8-2020. Chị D tham gia 01 phần, hốt hụi ngày 10-11-2018 với số tiền kêu hụi là 620.000 đồng được số tiền 29.930.000 đồng.

Và chị D có mượn của bà 04 dây hụi, gồm:

- Dây 1: Ngày 10-4-2018, chị D mượn 01 phần của chị Tý dây hụi 2.000.000 đồng khui ngày 10-01-2018 gồm 22 phần, mãn ngày 10-10-2019. Chị D kêu hụi số tiền 600.000 đồng ngày 10-4-2018 (sống 18, chết 03), được số tiền 30.200.000 đồng. Chị D phải trả số tiền là 43.000.000 đồng;

- Dây 2: Ngày 10-6-2018, chị D mượn 01 phần của anh Rinh dây hụi 1.000.000 đồng khui ngày 10-01-2018 gồm 22 phần, mãn ngày 10-10-2019. Chị D kêu hụi số tiền 200.000 đồng ngày 10-6-2018 (sống 16, chết 05), được số tiền 17.300.000 đồng. Chị D phải trả số tiền là 21.500.000 đồng;

- Dây 3: Ngày 10-7-2018, chị D mượn 01 phần của ông 4 Reo dây hụi 1.000.000 đồng khui ngày 10-01-2018 gồm 22 phần, mãn ngày 10-10-2019. Chị D kêu hụi số tiền 200.000.000 đồng ngày 10-7-2018 (sống 15, chết 06), được số tiền 17.500.000 đồng. Chị D phải trả số tiền là 21.500.000 đồng;

- Dây 4: Ngày 10-8-2018, chị D mượn 01 phần của anh Cân dây hụi 1.000.000 đồng (chung dây hụi với ông 4 Reo), khui ngày 10-01-2018 gồm 22 phần, mãn ngày 10-10-2019. Chị D kêu hụi số tiền 200.000.000 đồng ngày 10- 8-2018 (sống 14, chết 07), được số tiền 17.700.000 đồng. Chị D phải trả số tiền là 21.500.000 đồng.

Tng cộng số tiền hụi mượn mà chị D phải trả lại là 107.500.000 đồng.

Bà và chị D có thỏa thuận, chị D góp tiền hụi cho bà mỗi ngày góp 200.000 đồng (tức là mỗi tháng sẽ góp được số tiền 6.000.000 đồng) bắt đầu góp từ ngày 10-4-2018. Bà và chị D thỏa thuận trong 6.000.000 đồng tiền góp được mỗi tháng trừ tiền hụi chết là 4.000.000 đồng của dây hụi khui ngày 10-01-2018 và dây hụi chết còn nợ trước đó nhưng từ tháng 11-2018 hụi cũ đã mãn nên góp cùng với dây hụi 2.000.000 đồng khui ngày 10-10-2018, còn 2.000.000 đồng là góp tiền hụi mượn. Đến ngày 01-5-2019, chị D ngưng bán ở chợ nên không tiếp tục góp tiền hụi cho bà.

Đi với 02 dây hụi tham gia, chị D có đóng tiền hụi chết cho bà đến tháng 4-2019, từ tháng 5-2019 thì chị D ngưng đóng hụi cho đến nay. Do đó, chị D còn nợ dây 2.000.000 đồng khui ngày 10-01-2018 là 12.000.000 đồng; dây 2.000.000 đồng khui ngày 10-10-2018 là 32.000.000 đồng. Tổng cộng 02 dây hụi chết chị D còn nợ là 44.000.000 đồng.

Đi với 04 dây hụi mượn, chị D góp được 12 tháng từ ngày 10-4-2018 đến ngày 30-4-2019 mỗi tháng góp 2.000.000 đồng, riêng tháng 12-2018 và tháng 01-2019 chị D góp mỗi tháng được 1.000.000 đồng. Tổng số tiền hụi mượn mà chị D đã góp được cho bà là 22.000.000 đồng. Còn lại 85.500.000 đồng. Tổng cộng tiền hụi chị D còn nợ là 129.500.000 đồng, bà không yêu cầu tính tiền lãi.

Ngoài ra, trong thời gian chị D góp hụi cho bà, chị D có mượn của bà 02 lần với số tiền là 7.000.000 đồng, gồm: ngày 11-7-2018 mượn 5.000.000 đồng và ngày 10-11-2018 mượn 2.000.000 đồng. Nay bà yêu cầu chị D trả lại cho bà 7.000.000 đồng tiền mượn, bà không yêu cầu tính tiền lãi.

Tại bản tự khai đề ngày 13-10-2019 và trong quá trình giải quyết, bị đơn chị Võ Hồng D trình bày:

Chị thống nhất với lời trình bày của bà L về 04 dây hụi mượn và 02 dây hụi mà chị tham gia do bà L làm chủ thảo. Chị thừa nhận có hốt 02 dây hụi và mượn 04 dây hụi như bà L đã trình bày. Đối với 06 giấy đăng tiền hụi mà bà L cung cấp cho Tòa án chị thừa nhận là do chị ký và bà L có đăng tiền hụi cho chị như giấy đăng hụi có ghi. Tuy nhiên về số tiền hụi chết đã đóng và hụi mượn mà chị đã góp trả hàng tháng chị không đồng ý với lời trình bày của bà L.

Chị và bà L có thỏa thuận góp mỗi ngày 200.000 đồng, chị bắt đầu góp từ ngày 14-4-2018 đến tháng 8-2018, mỗi tháng góp được 6.000.000 đồng được trừ vào tiền hụi mượn và tiền hụi chết. Nhưng từ tháng 9-2018 thì 5.000.000 đồng/6.000.000 đồng tiền góp hai bên thỏa thuận trừ vào tiền hụi mượn, còn 1.000.000 đồng đắp vào số tiền kêu hụi của các dây hụi mượn hàng tháng (ví dụ:

tháng 9-2018 dây hụi mượn 1.000.000 đồng kêu 200.000 đồng thì chị phải đóng 200.000 đồng, còn người cho mượn hụi chỉ đóng 800.000 đồng), thiếu bao nhiêu thì chị tự bù thêm tiền vào. Chị góp đến ngày 29-7-2019, mỗi ngày chị đều góp đủ 200.000 đồng cho bà L, không thiếu ngày nào. Đến ngày 30-7-2019 thì chị ngưng góp tiền hụi mượn cho bà L cho đến nay.

Vào tháng 6-2019, chị bán xe tải có trả cho bà L số tiền là 15.000.000 đồng cho dây hụi mượn 1.000.000 đồng (sống 14, chết 07) là do dây hụi này có 14 hụi sống nên số tiền phải trả là 14.000.000 đồng cộng thêm 01 phần hụi chị mượn thành 15.000.000 đồng. Do đó, đối với dây hụi 1.000.000 đồng này chị đã trả xong cho bà L nên bà L đồng ý gạt bỏ.

Tng số tiền chị đã góp cho bà L từ tháng 9-2018 đến ngày 29-7-2019 là 66.000.000 đồng, hiện chị còn nợ 16.000.000 đồng cho 03 dây hụi còn lại.

Đi với 02 dây hụi chết, từ khi hốt hụi thì chị góp mỗi ngày chung với tiền hụi mượn, nhưng từ tháng 9-2018 trở về sau thì mỗi tháng chị có mang tiền đến đóng hụi chết cho bà L 01 lần vào ngày 14 hàng tháng, không phải góp mỗi ngày nữa. Mỗi dây là 2.000.000 đồng, 02 dây là 4.000.000 đồng. Đến tháng 8- 2019 thì chị ngưng đóng tiền hụi chết cho bà L cho đến nay. Chị còn nợ lại tiền hụi chết dây khui ngày 10-01-2018 là 6.000.000 đồng; dây khui ngày 10-10- 2018 là 26.000.000 đồng. Tiền hụi chết của 02 dây là 32.000.000 đồng. Tổng cộng số tiền hụi mà chị còn nợ bà L là 48.000.000 đồng, chị đồng ý trả cho bà L số tiền này.

Chị thừa nhận có mượn bà L 02 lần với số tiền 7.000.000 đồng như bà L đã trình bày. Chị đồng ý trả cho bà L số tiền 7.000.000 đồng này. Ngoài ra, chị không trình bày gì thêm.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã thực hiện đúng theo quy định pháp luật tố tụng dân sự. Đương sự đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định pháp luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Ghi nhận chị D đồng ý trả cho bà L số tiền nợ vay là 7.000.000 đồng;

- Buộc chị D có nghĩa vụ trả cho bà L số tiền nợ hụi từ ngày 03-6-2019 cho đến khi hụi mãn và số tiền hụi mượn còn nợ sau khi đã trừ đi số tiền đã đóng từ ngày 10-4-2018 đến ngày 02-6-2019.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Thực tế, chị Võ Hồng D có tham gia 02 dây hụi và mượn 04 dây hụi do bà Nguyễn Thị L làm chủ thảo.

- 02 dây hụi mà chị D trực tiếp tham gia gồm:

+ Dây 2.000.000 đồng/tháng khui ngày 10-01-2018 gồm 22 phần, mãn ngày 10-10-2019. Chị D tham gia 01 phần, hốt hụi ngày 10-3-2018;

+ Dây 2.000.000 đồng/tháng khui ngày 10-10-2018 gồm 23 phần, mãn ngày 10-8-2020. Chị D tham gia 01 phần, hốt hụi ngày 10-11-2018.

- 04 dây hụi mà chị D mượn, gồm:

+ Dây 1: Dây hụi 2.000.000 đồng khui ngày 10-01-2018 gồm 22 phần, mãn ngày 10-10-2019. Chị D mượn 01 phần vào ngày 10-4-2018;

+ Dây 2: Dây hụi 1.000.000 đồng khui ngày 10-01-2018 gồm 22 phần, mãn ngày 10-10-2019. Chị D mượn 01 phần vào ngày 10-6-2018;

+ Dây 3: Dây hụi 1.000.000 đồng khui ngày 10-01-2018 gồm 22 phần, mãn ngày 10-10-2019. Chị D mượn 01 phần vào ngày 10-7-2018;

+ Dây 4: Dây hụi 1.000.000 đồng khui ngày 10-01-2018 gồm 22 phần, mãn ngày 10-10-2019. Chị D mượn 01 phần vào ngày 10-8-2018 (dây 4 chung dây hụi với dây 3).

Tất cả các dây hụi trên chị D đều đã hốt và bà L đã đăng đủ tiền hụi. Tuy nhiên, bà L và chị D không thống nhất được thời gian ngừng góp hụi và số tiền hụi đã góp.

[1.1] Công thức tính tiền hụi mượn như sau:

Số tiền hụi phải trả = Số tiền phải đóng của một phần hụi chết x tổng số phần hụi của dây hụi – Tiền cò Ngoài ra, mỗi tháng chị D còn trả bù thêm số tiền chênh lệch giữa tiền hụi chết và tiền hụi sống cho người có phần hụi cho mượn.

Về cách thức tính tiền hụi mượn giữa bà L và chị D đã thống nhất với nhau và không xảy ra tranh chấp nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Do đó, tiền hụi mượn mà chị D phải trả cho bà L gồm:

+ Dây 1: 2.000.000 đồng/phần x 22 phần – 1.000.000 đồng = 43.000.000 đồng;

+ Dây 2: 1.000.000 đồng/phần x 22 phần – 500.000 đồng = 21.500.000 đồng;

+ Dây 3: 1.000.000 đồng/phần x 22 phần – 500.000 đồng = 21.500.000 đồng;

+ Dây 4: 1.000.000 đồng/phần x 22 phần – 500.000 đồng = 21.500.000 đồng.

Tng cộng số tiền hụi mượn mà chị D có trách nhiệm trả cho bà L là 107.500.000 đồng.

[1.2] Xét yêu cầu của nguyên đơn thì thấy:

Bà L cho rằng giữa bà và chị D có thỏa thuận tiền hụi chết của 02 dây hụi tham gia và 04 dây hụi mượn được góp mỗi ngày 200.000 đồng, bắt đầu góp từ ngày 10-4-2018 cho đến khi mãn hụi. Cụ thể, bà L và chị D thỏa thuận trong 6.000.000 đồng tiền góp được mỗi tháng thì 4.000.000 đồng là góp cho 02 dây hụi chết gồm dây hụi 2.000.000 đồng khui ngày 10-01-2018 và dây hụi chết còn nợ trước đó (từ tháng 4-2018 đến tháng 10-2018) nhưng từ tháng 11-2018 hụi cũ đã mãn nên góp cùng với dây hụi 2.000.000 đồng khui ngày 10-10-2018; còn 2.000.000 đồng là góp cho 04 phần hụi mượn. Chị D góp mỗi ngày đầy đủ, riêng tháng 12-2018 và tháng 01-2019 thì chị D chỉ góp 5.000.000 đồng/tháng, đến ngày 01-5-2019 thì chị D ngưng bán ở chợ nên không tiếp tục góp tiền hụi cho bà. Nên bà L cho rằng chị D còn nợ bà số tiền như sau:

- Đối với 02 dây hụi tham gia, chị D còn nợ

+ Dây 2.000.000 đồng khui ngày 10-01-2018 nợ từ tháng 5-2019 đến tháng 10-2019 là 06 tháng x 2.000.000 đồng = 12.000.000 đồng;

+ Dây 2.000.000 đồng khui ngày 10-10-2018 nợ từ tháng 5-2019 đến tháng 8-2020 là 16 tháng x 2.000.000 đồng = 32.000.000 đồng.

Tng cộng 02 dây hụi chết chị D còn nợ là 44.000.000 đồng.

- Đối với 04 dây hụi mượn, chị D góp được 12 tháng từ ngày 10-4-2018 đến ngày 30-4-2019 mỗi tháng góp 2.000.000 đồng, riêng tháng 12-2018 và tháng 01-2019 chị D góp mỗi tháng được 1.000.000 đồng. Tổng số tiền hụi mượn mà chị D đã góp được cho bà là 22.000.000 đồng. Còn lại 107.500.000 đồng – 22.000.000 đồng = 85.500.000 đồng.

Tng cộng tiền hụi chị D còn nợ bà là 129.500.000 đồng.

[1.3] Còn chị D thì cho rằng từ tháng 4-2018 đến tháng 8-2018 mỗi ngày chị góp 200.000 đồng (mỗi tháng 6.000.000 đồng), hai bên thỏa thuận góp cho tiền hụi chết và 04 dây hụi mượn như bà L trình bày là đúng, tuy nhiên từ tháng 9-2018 thì giữa chị và bà L có thỏa thuận lại tiền góp được trừ hết vào tiền hụi mượn, trong đó 5.000.000 đồng được trừ vào tiền hụi mượn, 1.000.000 đồng là tiền chị phải đắp vào số tiền kêu hụi của các dây hụi mượn hàng tháng; còn hụi chết thì chị đóng đủ cho bà L vào ngày 14 hàng tháng. Và chị còn cho rằng, chị đóng hụi chết đến tháng 7-2019 và góp hụi đến ngày 29-7-2019, từ ngày 30-7- 2019 đến nay chị ngưng góp hụi và ngưng đóng tiền hụi chết hàng tháng cho bà L nhưng không được bà L thừa nhận và chị D cũng không có chứng cứ gì để chứng minh giữa bà L và chị D có thỏa thuận lại với nhau về việc đóng tiền hụi chết hàng tháng từ tháng 9-2018 và cũng không chứng minh được chị D ngưng góp tiền cho bà L từ ngày 30-7-2019. Hơn nữa, thu nhập có lời của chị D từ việc buôn bán ở chợ khoảng 200.000 đồng/ngày thì chị không còn khoảng thu nhập nào khác, ngoài việc góp tiền hụi cho bà L thì chị D còn thừa nhận còn nợ tiền hụi và phải đóng hụi chết cho chủ thảo khác nên chị D cho rằng mỗi tháng đóng hụi cho bà L 10.000.000 đồng so với mức thu nhập của chị là không phù hợp. Do đó, không được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[1.4] Ngoài ra, chị D còn cho rằng vào tháng 6-2019, chị D bán xe tải có trả cho bà L số tiền 15.000.000 đồng cho 01 dây hụi mượn nên bà L đồng ý gạt bỏ giấy đăng hụi ngày 10-8-2018 của dây hụi 1.000.000 đồng khui ngày 10-01- 2018 (sống 14, chết 7) nên đối với dây hụi này chị đã trả cho bà L xong. Xét thấy, bà L thừa nhận giấy đăng hụi này là do bà gạt bỏ, tuy bà L cho rằng do bà lỡ tay nhưng sau khi gạt bỏ tờ giấy hụi đến trước khi khởi kiện, bà L cũng không yêu cầu chị D ký lại giấy nợ hay đính chính phần gạt bỏ. Do đó, việc chị D có trả cho bà L dây hụi mượn 1.000.000 đồng khui ngày 10-01-2018 (sống 14, chết 7) là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[1.5] Bà L thừa nhận kể từ khi chị D ngưng bán ở chợ thì chị D cũng ngưng góp tiền hụi cho bà và bà L cho rằng chị D ngưng góp tiền hụi từ ngày 01-5- 2019, còn chị D thì cho rằng chị góp hụi đầy đủ cho bà L đến hết ngày 29-7- 2019. Qua thu thập chứng cứ lấy lời khai người làm chứng là người bán hàng ở chợ nơi chị D buôn bán (bút lục số 38-43) cung cấp: chị D đã ngưng bán ở chợ khoảng từ ngày 01-5-2019 (AL) tức ngày 03-6-2019. Và bà L cũng thừa nhận rằng sau khi chị D ngưng góp tiền hụi cho bà thì vài ngày sau bà Trần Thị Th (Ch) cũng ngưng góp và thời gian mà bà Ch ngưng góp hụi cho bà L đã được bà L và bà Ch thống nhất là ngày 10-6-2019. Do đó, có căn cứ cho rằng chị D không còn bán ở chợ và cũng ngưng góp hụi cho bà L từ ngày 03-6-2019 là phù hợp.

[1.6] Việc bà L cho rằng tháng 12-2018 và tháng 01-2019 chị D góp tiền cho 04 dây hụi mượn mỗi tháng được 1.000.000 đồng, nhưng bà L không có chứng cứ gì để chứng minh và cũng không được chị D thừa nhận nên không được Hội đồng xét xử chấp nhận. Mặt khác, tuy thời gian chị D mượn hụi hốt vào các tháng khác nhau như tháng 4, 6, 7 và tháng 8-2018 nhưng bà L thống nhất tiền hụi góp trả hàng ngày bắt đầu tính từ ngày 10-4-2018 do đó Hội đồng xét xử cần ghi nhận chị D có góp tiền hụi cho bà L 200.000 đồng/ngày từ ngày 10-4-2018 (tức 6.000.000 đồng/tháng) gồm tiền hụi chết là 4.000.000 đồng và tiền hụi mượn là 2.000.000 đồng. Nên tiền hụi được tính lại như sau:

- Tiền hụi chết của 02 dây hụi mà chị D tham gia còn nợ bà L là:

+ Dây 2.000.000 đồng khui ngày 10-01-2018 nợ từ tháng 6-2019 đến tháng 10-2019 là 05 tháng x 2.000.000 đồng = 10.000.000 đồng;

+ Dây 2.000.000 đồng khui ngày 10-10-2018 nợ từ tháng 6-2019 đến tháng 8-2020 là 15 tháng x 2.000.000 đồng = 30.000.000 đồng. Tổng cộng 02 dây hụi chết chị D còn nợ là 40.000.000 đồng.

- Số tiền hụi mượn mà chị D đã góp từ ngày 10-4-2018 đến ngày 02-6-2019 là 13 tháng 23 ngày được số tiền là:

+ Từ ngày 10-4-2018 đến ngày 10-5-2019 là 2.000.000 đồng/tháng x 13 tháng = 26.000.000 đồng

+ Do tháng 6-2019 không góp đủ ngày nên Hội đồng xét xử tính tiền góp từ ngày 11-5-2019 đến ngày 02-6-2019 được tính tròn phần tiền hụi mượn nên số tiền góp được là 200.000 đồng/ngày x 23 ngày = 4.600.000 đồng.

Tng cộng tiền hụi mượn đã góp được là 30.600.000 đồng. Do trong 04 dây hụi có 01 dây hụi 2.000.000 đồng và 03 dây hụi 1.000.000 đồng nên tính thành 05 phần 1.000.000 đồng thì mỗi phần hụi 1.000.000 đồng góp được số tiền là 30.600.000 đồng : 05 = 6.120.000 đồng. Trừ 01 dây hụi 1.000.000 đồng mượn ngày 10-8-2018 mà chị D đã góp xong. Do đó, số tiền hụi mượn chị D còn nợ bà L là (107.500.000 đồng – 21.500.000 đồng) – (6.120.000 đồng x 04) = 61.520.000 đồng.

Tng cộng tiền hụi chết và hụi mượn mà chị D còn nợ bà L là 101.520.000 đồng. Do đó, Hội đồng xét xử cần chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà L đối với chị D về tiền nợ hụi theo quy định tại Điều 471 của Bộ luật Dân sự. Buộc chị D có trách nhiệm trả cho bà L số tiền hụi còn nợ là 101.520.000 đồng.

Bà L không yêu cầu tính tiền lãi nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

[2] Ngoài ra, bà L và chị D còn thống nhất chị D có mượn của bà L số tiền 7.000.000 đồng, chị D đồng ý trả cho bà L số tiền trên nên Hội đồng xét xử cần ghi nhận là phù hợp với quy định tại các điều 463, 466 của Bộ luật Dân sự.

Bà L không yêu cầu tính tiền lãi nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

[3] Xét đề nghị của Viện kiểm sát là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về án phí sơ thẩm: nguyên đơn phải chịu án phí đối với số tiền không được Hội đồng xét xử chấp nhận. Bị đơn phải chịu án phí đối với số tiền được Hội đồng xét xử chấp nhận theo quy định tại khoản 4 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điều 147, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các điều 463, 466, 471 của Bộ luật Dân sự;

Căn cứ vào khoản 4 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị L đối với chị Võ Hồng D về “Tranh chấp hợp đồng góp hụi”. Buộc chị Võ Hồng D có nghĩa vụ trả cho bà Nguyễn Thị L tổng số tiền nợ hụi là 101.520.000 (Một trăm lẻ một triệu năm trăm hai mươi ngìn) đồng.

Bà L không yêu cầu tính lãi nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

2. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị L đối với số tiền nợ hụi là 27.980.000 đồng.

3. Công nhận sự thỏa thuận giữa bà Nguyễn Thị L đối với chị Võ Hồng D về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.

Chị Võ Hồng D đồng ý trả cho bà Nguyễn Thị L số tiền nợ vay là 7.000.000 (Bảy triệu) đồng.

Bà L không yêu cầu tính lãi nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

4. Về án phí sơ thẩm: Bà L phải chịu 1.399.000 (Một triệu ba trăm chín mươi chín nghìn). Được khấu trừ vào số tiền 3.962.500 (Ba triệu chín trăm sáu mươi hai nghìn năm trăm) đồng tạm ứng án phí đã nộp theo các biên lai thu số 0009713 ngày 01-10-2019 và số 0009739 ngày 11-10-2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Gò Dầu. Hoàn trả cho bà L số tiền 2.563.500 (Hai triệu năm trăm sáu mươi ba nghìn năm trăm) đồng từ tạm ứng án phí đã nộp.

Chị D phải chịu 5.251.000 (Năm triệu hai trăm năm mươi mốt nghìn) đồng. Đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 78/2019/DS-ST ngày 13/11/2019 về tranh chấp hợp đồng góp hụi và vay tài sản

Số hiệu:78/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gò Dầu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 13/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về