Bản án 78/2017/HSST ngày 29/09/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 78/2017/HSST NGÀY 29/09/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 77/2017/TLST ngày 12/9/2017 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 88/QĐ- HSST ngày 15 tháng 9 năm 2017 đối với bị cáo:

Phan Văn Ô, sinh năm 1974. Nguyên quán: Huyện K, tỉnh Hưng Yên; Nơi ĐKHKTT: Bản L, xã H, huyện M, tỉnh Sơn La, trình độ văn hoá lớp 03/12, nghề nghiệp trồng trọt. Dân tộc: Kinh; Quốc tịch Việt Nam. Tôn giáo không.

Con ông Phan Văn S và bà Đỗ Thị G (đều đã chết).

Bị cáo có vợ Nguyễn Thị N, sinh năm 1978 (đã ly hôn) và có 01 con, sinh năm 1997, hiện đều trú tại Thôn H, xã K, huyện K, tỉnh Hưng Yên.

Tiền sự: Không. Tiền án:

Ngày 01/10/2002, TAND Thành phố Hà Nội xử phạt 09 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Ngày 21/4/2009, TAND huyện M, tỉnh Sơn La xử phạt 08 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Bị tạm giam từ ngày 30/5/2017 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Khoảng 14 giờ ngày 24 tháng 5 năm 2017, Phan Văn Ô mang theo số tiền 21.400.000 đồng một mình điều khiển xe máy nhãn hiệu HONDA loại xe Arblade, BKS 30L5- 6977 từ nhà vượt biên trái phép sang nước cộng hòa dân chủ nhân dân Lào tìm mua ma túy mang về sử dụng và bán kiếm lời, đến địa phận Lào Phan Văn Ô gặp một người đàn ông dân tộc Mông, qua trao đổi thỏa thuận Phan Văn Ô mua được của người này 1.000 viên hồng phiến với giá 21.200.000 đồng, được gói bằng 03 gói nilon màu trắng, sau khi mua xong Phan Văn Ô lấy ra 15 viên hồng phiến sử dụng ngay tại đó bằng hình thức đốt hít, số còn lại là 985 viên cất giấu trong túi quần bên phải đang mặc rồi điều khiển xe máy về theo đường cũ về đến nghĩa địa bản L, xã H, huyện M, tỉnh Sơn La Phan Văn Ô mang số hồng phiến cất giấu vào khe đất sau nhà tang lễ của nghĩa trang bản L, xã H.

Đến 12 giờ ngày 30 tháng 5 năm 2017, Phan Văn Ô đến khu vực nghĩa trang bản L, xã H lấy toàn bộ 03 gói nilon màu trắng bên trong có chứa 985 viên hồng phiến cho vào túi quần rồi điều khiển xe máy đến xã L, huyện Y mục đích để bán kiếm lời, khi đến bản T, xã N, huyện Y thì bị tổ công tác Công an huyện Y kiểm tra và lập biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang thu giữ toàn bộ vật chứng là 985 có tổng trọng lượng là 97,64 gam.

Kết luận giám định ký hiệu H1, X1, H2, X2, H3, X3 là chất ma túy, loại chất Methamphetamine, trọng lượng của mẫu gửi giám định là 4,024 gam.

Do có hành vi nêu trên, tại cáo trạng số 55/KSĐT-AN ngày 12/9/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Châu đã truy tố bị cáo Phan Văn Ô về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo điểm m, p khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự .

Tại phiên tòa, kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm m, p khoản 2 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Xử phạt Phan Văn Ô từ 12 đến 13 năm tù.

Vật chứng vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a, đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm c khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong mặt trước ghi vật chứng nhập kho tang vật vụ án Phan Văn Ô về tội Mua bán trái phép chất ma túy ngày 30/5/2017 gồm mẫu L1 = 37,83 gam; L2 = 39,08 gam; L3= 16,706 gam + và 01túi nilon màu trắng + 01 phong bì niêm phong đã bóc.

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 xe máy nhãn hiệu HONDA loại xe Arblade, BKS 30L5- 6977; trả cho Phan Văn Ô 01 điện thoại di động NOKIA- 105 vỏ màu đen máy đã qua sử dụng.

Trả lại cho bị cáo Phan Văn Ô 1.500.000 đồng.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1, 2 Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết 326/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội buộc bị cáo Phan Văn Ô phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Do hám lời, ngày 24/5/2017, Phan Văn Ô đã mua trái phép chất ma túy với mục đích để dụng cho bản thân và bán kiếm lời, hành vi của bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ sau:

Biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang do tổ công tác Công an huyện Yên Châu lập hồi 13 giờ 30 phút, ngày 30/5/2017 đối với bị cáo Phan Văn Ô cùng vật chứng là 97,64 gam Methamphetamine.

Tại bản kết luận giám định số 549/KLMT ngày 02/6/2017 của Phòng kỹ thuật Công an tỉnh Sơn La kết luận mẫu gửi giám định ký hiệu H1, X1, H2, X2, H3, X3 trong vụ án Phan Văn Ô là loại chất ma túy, là chất Methamphetamine có trọng lượng 4,024 gam.

-Lời khai của Phan Văn Ô tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa thừa nhận ngày 24/5/2017 đã mua 1.000 viên hồng phiến của người đàn ông dân tộc Mông với số tiền 21.200.000 đồng, sau khi mua xong bị cáo đã sử dụng hết 15 viên, số còn lại 985 viên bị cáo cất giữ nhằm mục đích để bán kiếm lời, trước đó bị cáo đã có hai tiền án về tội mua bán trái phép chất ma túy, sau khi chấp hành xong hình phạt tù bị cáo tiếp tục phạm tội do cố ý là hoàn toàn phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, do vậy có đủ căn cứ kết luận bị cáo Phan Văn Ô phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy theo qui định tại điểm m, p khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự. Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp rất nguy hiểm, cần lên mức án nghiêm khắc tươngxứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo để giáo dục riêng và phòng ngừa tội phạm chung.

Về hình phạt bổ sung: Qua điều tra xác minh bị cáo không có tài sản gì đáng giá, cần miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã có 02 tiền án về tội mua bán trái phép chất ma túy chưa được xóa án tích. Xét thấy hành vi của bị cáo là thuộc trường tái phạm nguy hiểm theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự, đã vi phạm tình tiết định khung hình phạt theo qui định tại điểm p khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự, do vậy không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội bị cáo khai báo thành khẩn, không có tiền sự, bản thân bị cáo đang mắc bệnh về gan, thường xuyên chữa trị, gia đình bị cáo có đơn đề nghị bố của bị cáo là ông Phan Văn S tham gia bộ đội trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước, bố nuôi là ông Lò Xuân B là người có công cách mạng được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng ba, cần áp dụng điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự để xem xét cân nhác giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Về nguồn gốc chất ma túy, bị cáo khai mua của một người đàn ông dân tộc Mông không biết họ tên và địa chỉ tại địa phận thuộc nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Y không có căn cứ xác minh làm rõ, cần chấp nhận.

Vật chứng vụ án: Mẫu L1 = 37,83; L2 = 39,08 gam; L= 16,706 gam + và 03 túi nilon màu trắng

+ phong bì niêm phong đã bóc mở, mặt sau phong bì có tên và chữ ký các thành viên tham gia niêm phong và 02 con dấu đỏ của cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Y ở 2 góc phong bì là vật Nhà nước cấm lưu hành và những vật không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy. 01 xe máy nhãn hiệu HONDA loại xe Arblade, BKS 30L5- 6977, xe không có giấy tờ kèm theo, Phan Văn Ô khai nhận chiếc xe máy trên là xe của Phan Văn Ô mua của một người không biết họ tên và địa chỉ với giá 17.000.000 đồng, là xe thuộc quyền sở hữu của bị cáo Phan Văn Ô, bị cáo đã dùng làm phương tiện phạm tội, cần tịch thu sung công quỹ nhà nước. 

01 điện thoại di động NOKIA- 105 vỏ màu đen máy đã qua sử dụng là điện thoại của Phan Văn Ô, không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, cần trả lại cho bị cáo Phan Văn Ô.

Tiền ngân hàng Nhà nước Việt Nam là 1.500.000 đồng thu của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, cần trả lại cho bị cáo.

Bị cáo phải chịu án phí theo qui định của pháp luật. Với các căn cứ nêu trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Phan Văn Ô phạm tội mua bán trái phép chất ma túy.

1. Áp dụng điểm m, p khoản 2 Điều 194, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Phan Văn Ô 12 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 30/5/2017. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

2. Vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, b, đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong mặt trước ghi vật chứng nhập kho tang vật vụ án ma túy ngày 30/5/2017 tại bản T, xã N, huyện Y, Sơn La gồm các mẫu L1 = 37,83 gam; L2 = 39,08 gam; L= 16,706 gam đều là ma túy thu giữ trong vụ án (loại ma túy methamphetamine) và 03 túi nilon màu trắng + 01 phong bì niêm phong đã bóc mở, mặt sau phong bì có tên và chữ ký các thành viên tham gia niêm phong và 02 con dấu đỏ của cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Y ở 2 góc phong bì.

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 xe máy nhãn hiệu HONDA loại xe Arblade, BKS 30L5- 6977, xe cũ đã qua sử dụng của bị cáo Phan Văn Ô.

- Trả lại cho bị cáo Phan Văn Ô 01 điện thoại di động NOKIA- 105 vỏ màu đen máy đã qua sử dụng.

- Trả lại cho bị cáo Phan Văn Ô 1.500.000 đồng (một triệu năm trăm nghìn đồng) tiền ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo biên lai thu tiền số 002877 ngày 31/8/2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Y, tỉnh Sơn La.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự.

Buộc bị cáo Phan Văn Ô phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 78/2017/HSST ngày 29/09/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:78/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về