Bản án 78/2017/HSST ngày 15/12/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 78/2017/HSST NGÀY 15/12/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 12 năm 2017, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang, xét xử côn g khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 65/2017/HSST ngày 24 tháng 10 năm 2017, về tội “Trộm cắp tài sản ” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 81/QĐXX-ST ngày 22 tháng 11 năm 2017 đối với bị cáo:

Phạm Văn Ph; sinh năm 1974; HKTT: ấp HT B, xã PT, huyện TS, tỉnh AG; Chỗ ở hiện nay: Không có nơi cư trú nhất định; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: Không biết chữ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Phạm Văn Th; sinh năm 1959 và bà Nguyễn Thị X; sinh năm 1955.

Tiền sự có 03 tiền sự:

- Vào tháng 6/1996 bị Công an xã PH, huyện TS, tỉnh AG xử phạt hành chính về hành vi “Gây rối trật tự công cộng ”.

- Vào ngày 08/4/2013 bị Công an xã TM, huyện VT, thành phố CT xử phạt hành chính với số tiền 1.500.000đồng, về hành vi “Trộm cắp tài sản”, bị cáo vẫn chưa nộp phạt .

- Vào ngày 16/10/2013 bị Công an xã VQ, huyện VT, thành phố CT xử phạt hành chính với số tiền 1.500.000đồng, về hành vi “Trộm cắp tài sản” , bị cáo vẫn chưa nộp phạt .

Tiền án có 04 tiền án:

- Vào ngày 24/7/1993 bị Toà án nhân dân tỉnh CT xử phạt 02 năm tù giam về hành vi “Trộm cắp tài sản của công dân”, tại bản án  hình sự sơ thẩm số: 65/HSST ngày 24/7/1993.

- Vào ngày 28/02/1998 bị cáo bị Toà án nhân dân huyện TN, tỉnh CT xử phạt 36 tháng tù giam, về hành vi “Trộm cắp tài sản của cô ng dân”, tại bản án hình sự sơ thẩm số: 28/STHS ngày 28/02/1998 .

- Vào ngày 11/4/2003 bị cáo bị  Toà án nhân dân tỉnh CT xử phạt 60 tháng tù giam, về hành vi“Trộm cắp tài sản”, tại bản án hình sự phúc thẩm số 41/HSPT ngày 11/4/2003.

- Vào ngày 15/01/2015 bị cáo bị Toà án nhân dân huyện VT, thành phố CT xử phạt 02 năm tù giam, về hành vi “Trộm cắp tài sản”, tại bản án hình sự sơ thẩm số: 02/2015/HSST ngày 15/01/2015 (bị cáo chưa chấp hành án đối với bản án này).

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/6/2017 cho đến nay (có mặt) Người bị hại: Anh Lê Võ Kh; sinh năm 1996 (vắng mặt)

Trú tại: ấp Hòa Tiến, xã Mong Thọ , huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang.

Người làm chứng: Ông Nguyn Văn P; sinh năm 1973 (vắng mặt)

Trú tại: ấp Hòa Tiến, xã Mong Thọ , huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào sáng ngày 12 tháng 6 năm 2017, Phạm Văn Ph một mình đi bộ từ Kênh 5, huyện Tân Hiệp đến xã MT, huyện Châu Thà nh, tỉnh Kiên Giang để xin ăn. Khi Ph đi đến ấp HT, xã MT thì vào nhà gặp ông Nguyễn Văn P để xin tiền nhưng ông P không cho, Ph tiếp tục vào nhà anh Lê Võ Kh. Lúc này Ph thấy nhà không có người nên đi thẳng vào trong phòng ngủ lấy 02 cái điện thoại bỏ vào túi quần đi ra ngoài thì bị ông P nhìn thấy , ông P đi theo Ph và kêu vợ là bà Nguyễn Thị K qua nhà Khang cho biết sự việc, anh Kh phát hiện mất 02 cái điện thoại nên chạy theo cùng ông P bắt giữ Ph cùng tang vật

Tại Bản Kết luận về việc định giá tài sản  trong tố tụng hình sự số: 50 ngày 21 tháng 6 năm 2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự của Ủy ban nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang thể hiện: 01 điện thoại di động OPPO A39 và 01 điện thoại di động SamSung Galaxy J5, có giá trị 5.669.000 đồng .

Về vật chứng thu giữ trong vụ án: 01 điện thoại di động OPPO A39 và 01 điện thoại di động SamSung Galaxy J5 đã trả lại cho chủ sở hữu anh Lê Võ Kh .

Về trách nhiệm dân sự: Do sau khi vụ án bị phát hiện bị hại anh Lê Võ Kh đã nhận lại tài sản , hiện tại anh Kh không có yêu cầu về trách nhiệm dân sự .

Tại bản cáo trạng số : 70/CTr- VKS ngày 23/10/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang đã truy tố bị cáo Phạm Văn Ph về tội : “Trộm cắp tài sản ” theo điểm c khoản 2 Điều 138 BLHS.

Tại phiên tòa , đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Phạm Văn Ph phạm tội: “Trộm cắp tài sản ” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 2 Điều 138; điểm p khoản 1 Điều 46 và Điều 33 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Văn Ph từ 03 đến 04 năm tù.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận về quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành.

Bị cáo được nói lời nói sau cùng, bị cáo xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo .

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận thấy như sau:

[1]Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra C ông an huyện Châu Thành, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiền hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực  hiện đều hợp pháp.

[2] - Tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của  mình như bản Cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp lời khai tại Cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, thể hiện: Phạm Văn Ph là đối tượng sống lang thang không có nghề nghiệp  ổn định và có nhiều tiền án, tiền sự vẫn chưa được xóa án tích. Đến khoảng 10 giờ, ngày 12/6/2017 Ph một mình đi bộ từ Kênh 5 huyện Tân Hiệp đi xuống xã MT để xin ăn. Khi Ph đi đến nhà anh Lê Võ Kh trú tại ấp HT, xã MT, huyện CT thì thấy nhà không người nên Ph  đi  vào  trong  lén  lút  lấy  trộm  02  chiếc  điện  thoại  di  động  (01  cái  nhãn hiệuOPPO A39 và 01 cái nhãn hiệu SamSung Galaxy J5) bỏ vào túi quần rồi quay ra ngoài bỏ đi thì bị phát hiện và bắt quả tang. Theo kết quả định giá tài sản thì 02 ch iếc điện thoại mà Ph lấy trộm của anh Kh có giá trị là 5.669.000 đồng. Đối chiếu theo quy định tại Điều 138 Bộ luật hình sự thì  1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm  mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba nă m. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:  …. c) Tái phạm nguy hiểm;….”. Như vậy, hành vi lén lút lấy trộm tài sản có giá trị  5.669.000 đồng và do bị cáo có nhiều tiền án chưa được xóa án tích đã đủ y ếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự.

Xét về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội không những đã xâm phạm trực tiếp đến tài sản hợp phá p của người bị hại mà còn gây mất an ninh trật tự, tạo tâm lý bất an cho người dân đang sinh sống tại địa phương nơi xảy ra vụ án. Bản thân bị cáo nhận thức rỏ “Trộm cắp tài sản” là hành vi vi phạm pháp luật và sẽ bị xử lý nghiêm nếu như cố ý vi phạm. Mặc  dù nhận thức được điều đó thế nhưng với bản chất tham lam, lười lao động nên khi nhìn thấy tài sản của người khác để sơ hở bị cáo liền nhanh tay lấy cắp. Theo như hồ sơ thể hiện bản thân bị cáo đã 04 lần bị Tòa án xử phạt về tội “Trộm cắp tài sản ” vẫn chưa được xóa án tích, lẻ ra trong thời gian chấp hành án nhiều lần được cán bộ quản giáo cảm hóa, giáo dục bị cáo phải biết sữa đổi tu dưỡng bản thân để sống có ích cho gia đình và xã hội thế nhưng bị cáo không làm được điều đó mà cứ mãi lao vào con đường phạm tội để rồi hôm nay bị cáo lại phải tiếp tục đứng trước vành móng ngựa chịu sự nghiêm trị của pháp luật.  Với hành vi phạm tội nêu trên, HĐXX nhận định cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm và cần tách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục và phòng ngăn ngừa chung cho xã hội

[3] - Xét về tình tiết giảm nhẹ : Tại phiên Tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo nên cần xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo được quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS, sẽ xem xét hình phạt khi lượng hình để có mức án phù nhằm để cải tạo, giáo dục bị cáo chở thành một công d ân tốt sống có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời cũng nhằm thể hiện chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước.

[4] - Xét đề nghị của vị đại diện VKS tại phiên tòa về việc địn h tội danh, khung hình phạt cũng như việc áp dụng các điều luật để xử lý vụ án là có căn cứ pháp luật nên HĐXX ghi nhận để xem xét.

[5] - Về trách nhiệm dân sự: Do tài sản bị mất trộm đã được nhận lại đầy đủ nên người bị hại anh Lê Võ Kh không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì nên HĐXX không xem xét.

[6] - Về án phí: Xử buộc bị cáo phải có nghĩa vụ nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Phạm Văn Ph phạm tội: “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 138; điểm p khoản 1 Điều 46 và Điều 33 BLHS, xử phạt bị cáo Phạm Văn Ph 03 (ba) năm tù. Thời điểm chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày 12/6/2017.

Về áp phí áp dụng khoản 2 Điều 99 BLTTHS và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

Xử buộc bị cáo Phạm Văn Ph phải nộp 200.000đồng tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

Báo cho bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Báo cho người bị hại vắng mặt tại phiên Tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

390
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 78/2017/HSST ngày 15/12/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:78/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về