Bản án 78/2017/HNGĐ-ST ngày 08/08/2017 về tranh chấp ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BÀNG, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 78/2017/HNGĐ-ST NGÀY 08/08/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON, CHIA TÀI SẢN KHI LY HÔN

Trong ngày 08 tháng 8 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 511/2016/TLST- HNGĐ ngày 05 tháng 10 năm 2016 về tranh chấp “ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 106/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 7 năm 2017 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phạm Hồng Th, sinh năm 1983; Địa chỉ: Ấp LT, xã LH, Huyện TB, tỉnh Tây Ninh. (Có mặt).

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn C, sinh năm 1969; Địa chỉ: Ấp LB, xã LG, huyện ĐH, tỉnh Long An; Địa chỉ tạm trú: Ấp LT, xã LH, Huyện TB, tỉnh Tây Ninh. (Có mặt).

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

+ Ông Phạm Văn Ti, sinh năm 1959; Địa chỉ: Ấp LT, xã LH, Huyện TB, tỉnh Tây Ninh. (Có đơn xin vắng mặt).

+ Bà Võ Thị N, sinh năm 1960; Địa chỉ: Ấp LT, xã LH, Huyện TB, tỉnh Tây Ninh. (Có đơn xin vắng mặt).

+ Chị Phạm Hồng T1, sinh năm 1978; Địa chỉ: Ấp LT, xã LH, Huyện TB, tỉnh Tây Ninh. (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 05/10/2016 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Phạm Hồng Th trình bày: Chị và anh C kết hôn nhau năm 2004, có đăng ký kết hôn ngày 01/02/2005 tại Ủy ban nhân dân xã Lộc Giang, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Sau khi Cưới nhau vợ chồng chị về nhà anh C sống được hai ngày thì vợ chồng chị về bên gia đình chị sống tại căn nhà may nhỏ mà cha mẹ chị xây cho chị để may đồ, thời gian đầu chung sống hạnh phúc, chị đi làm công nhân may ở Công ty Hoa Sen, khu công nghiệp Trảng Bàng, còn anh C làm giáo viên cấp hai tại trường trung học cơ sở Lộc Giang. Đến năm 2008 cha mẹ chị cho vợ chồng chị xây nhà trên đất của cha mẹ nhờ chị T1 đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vợ chồng chị sống hạnh phúc đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn, vợ chồng không còn tình cảm, nguyên nhân do anh C cho rằng chị thất học và không còn tôn trọng chị. Chị và anh C đã sống ly thân từ ngày 05/10/2016 đến nay. Nay chị yêu cầu được ly hôn với anh C.

Về con chung: Chị và anh C có một người con chung, cháu gái tên Nguyễn Hồng T2, sinh ngày 27/8/2005, đang theo sống với chị, sau khi ly hôn chị yêu cầu được tiếp tục nuôi cháu, chị không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con.

Tài sản chung: Vợ chồng chị có xây dựng 01 căn nhà cấp 4A, diện tích 97,74 m2 (ngang 5,4 m, dài 18,1 m), xây dựng năm 2008, 01 mái che phía trước bằng khung sắt, lợp tole, có diện tích 42,16 m2 (ngang 6,8 m dài 6,2 m), xây dựng năm 2016 và 01 căn nhà bếp, xây tường lợp tole, xây năm 2016, có diện tích 29,2 m2 (ngang cạnh 1 dài 6,2 m, ngang cạnh 2 dài 5,2 m, dài cạnh 1 dài 4,6m, dài cạnh 2 dài 6,1 m), bên trong nhà bếp có căn nhà vệ sinh. Chị thống nhất đồng ý với giá mà Hội đồng định giá đã định, tổng giá trị tài sản chung của vợ chồng là 214.417.362 đồng. Nhà xây dựng trên đất của cha mẹ chị là ông Phạm Văn Ti và bà Võ Thị N, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do chị Phạm Hồng T1 đứng tên dùm cha mẹ chị. Chi phí xây dựng nhà do chị bỏ ra khoảng 350.000.000 đồng, anh C chỉ có đóng góp 25.000.000 đồng, là tiền bán vàng Cới cha mẹ anh C cho vợ chồng chị. (Lúc Cưới cha mẹ anh C cho vợ chồng chị 01 lượng 02 chỉ vàng 24 K, bán 01 lượng được số tiền 25.000.000 đồng, còn 02 chỉ chị đang giữ). Trước khi Cới nhau với anh C, chị có để dành được số vàng là 02 lượng vàng 24 K nhưng chị bán để gộp chung vào việc xây nhà làm tài sản chung của vợ chồng. Chị và anh C không có thỏa thuận tài sản tranh chấp là tài sản riêng của chị nhưng toàn bộ số tiền chi phí xây nhà có được là do chị đi làm công nhân may dành dụm được, anh C không có đóng góp vào việc xây nhà. Cụ thể, thu nhập của chị từ lương công nhân lúc chị và anh C mới Cới nhau (năm 2004) là khoảng 6.000.000 đồng/tháng nhưng hiện nay lương của chị đã lên được 13.000.000 đồng/tháng; thu nhập của anh C lúc chị và anh C mới Cới nhau (năm 2004) là khoảng 5.100.000 đồng/tháng, hiện nay lương của anh C được 6.300.000 đồng/tháng. Vợ chồng chị tiền của ai người đó giữ, chị không quản lý tiền lương của anh C và anh C cũng không quản lý tiền lương của chị. Số tiền lương chị nhận được chị dùng vào việc mua vàng dành dụm, lúc xây nhà thì chị bán vàng để trả tiền vật liệu xây dựng và chi phí thợ hồ, tiền lương của anh C thì anh C sử dụng vào chi phí đi lại, ăn uống và chi tiêu cá nhân của anh C. Nay chị yêu cầu được sở hữu các căn nhà trên, chị đồng ý chia lại cho anh C 25.000.000 đồng.

Nợ chung: Hiện vợ chồng chị không có nợ ai nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Nguyễn Văn C trình bày: Anh thừa nhận lời trình bày chị Th về thời gian chung sống của vợ chồng, thời gian kết hôn; có con chung; không có nợ chung như chị Th trình bày là đúng; nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng anh không còn tình cảm, đời sống vợ chồng không hạnh phúc. Nay chị Th yêu cầu ly hôn, anh đồng ý ly hôn.

Con chung: Sau khi ly hôn anh yêu cầu được nuôi con chung, không yêu cầu chị Th cấp dưỡng nuôi con.

Tài sản chung: Vợ chồng anh có xây dựng 01 căn nhà cấp 4A, 01 mái che phía trước và 01 căn nhà bếp như lời trình bày của chị Th và như kết quả thẩm định tài sản của Hội đồng thẩm định. Anh thống nhất đồng ý với giá mà Hội đồng định giá đã định toàn bộ tài sản tranh chấp tổng giá trị là 214.417.362 đồng. Nhà xây dựng trên đất của cha mẹ vợ anh là ông Phạm Văn Ti và bà Võ Thị N, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do chị Phạm Hồng T1 đứng tên dùm cha mẹ vợ anh. Chi phí xây dựng nhà khoảng 400.000.000 đồng do vợ chồng anh đi làm dành dụm để xây nhà; Và chị Th có bán vàng Cới được 25.000.000 đồng, anh có lấy tiền đám Cới về giao cho chị Th thêm 45.000.000 đồng nhưng chỉ có vợ chồng anh biết, không ai biết việc anh giao tiền cho chị Th. Nay anh yêu cầu được chia đôi căn nhà trên về giá trị, tức là giao căn nhà trên cho chị Th được sở hữu, chị Th có trách nhiệm giao lại số tiền trị giá ½ căn nhà trên theo giá mà Hội đồng định giá đã định cho anh. Ngoài ra, anh không yêu cầu chia tài sản nào khác;

Nợ chung: Không có nên không yêu cầu giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 30/6/2017, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Võ Thị N và ông Phạm Văn Ti trình bày: Xác định căn nhà mà chị Th và anh C tranh chấp là tài sản chung của chị Th và anh C. Xây dựng trên phần diện tích đất của ông bà nhưng nhờ chị Phạm Hồng T1 (con ruột) đứng tên dùm. Ông bà có ý định phân chia đất cho các con, mỗi người con một lô đất gần nhau nhưng chưa làm thủ tục sang tên, chỉ cho xây nhà, sau này có điều kiện mới làm thủ tục sang tên. Do hiện nay chị Th và anh C ly hôn nên ông bà có nguyện vọng yêu cầu Tòa án giao lại cho chị Th được quyền sở hữu căn nhà, ông bà không tranh chấp quyền sử dụng đất với chị Th và anh C.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Phạm Hồng T1 trình bày: Chị có được cha mẹ là ông Phạm Văn Ti và bà Võ Thị N nhờ đứng tên dùm diện tích đất 723m2, thuộc thửa 137, tờ bản đồ 44, tọa lạc tại ấp Lộc Th (nay là Lộc Thọ), xã Lộc Hưng, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh, trong đó có phần diện tích đất chị Th và anh C xây dựng nhà ở. Phần đất chị đứng tên là tài sản của ông Ti, bà N. Chị không tranh chấp quyền sử dụng đất với ông Ti, bà N, chị Th và anh C.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bàng.

1. Việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án; Hội đồng xét xử tiến hành xét xử đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự và Thư ký phiên tòa thực hiện đúng nhiệm vụ và quyền hạn; Các đương sự thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của đương sự.

2. Việc giải quyết vụ án: Căn cứ vào Điều 55, Điều 59, Điều 81, Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, đề nghị Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân huyện Trảng Bàng tuyên xử:

Về hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Phạm Hồng Th và anh Nguyễn Văn C.

Về con chung: Giao cháu Nguyễn Hồng T2, sinh ngày 27/8/2005 cho chị Th tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Ghi nhận chị Th không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Giao căn nhà cấp 4A, diện tích 97,74 m2, mái che diện tích 42,16 m2, nhà bếp diện tích 29,2 m2, tại Ấp LT, xã LH, Huyện TB, tỉnh Tây Ninh, có tổng giá trị là 214.417.362 đồng cho chị Th được sở hữu, chị Th có nghĩa vụ Th toán lại giá trị tài sản cho anh C theo quy định của pháp luật.

Nợ chung: Không có, không giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Chị Th yêu cầu ly hôn, tranh chấp nuôi con với anh C. Anh C có đơn yêu cầu chia tài sản khi ly hôn. Tòa án thụ lý giải quyết là đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự và khoản 1 Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Ông Ti và bà N có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông Ti, bà N là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về hôn nhân: Chị Th và anh C tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2004, có tổ chức lễ Cưới, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Lộc Giang vào ngày 01/02/2005. Tuy nhiên, vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2015 phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, mâu thuẫn gia đình đã trầm trọng, mạnh ai nấy sống, không ai quan T2 đến ai, vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2015 cho đến nay mà không ai có thiện chí hàn gắn.

Xét thấy mâu thuẫn giữa chị Th và anh C đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Nay chị Th và anh C yêu cầu được thuận tình ly hôn là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại Điều 55 luật hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

 [3] Về nuôi con chung: Chị Th và anh C đều yêu cầu được quyền nuôi con, sau khi xem xét nguyện vọng của cháu Nguyễn Hồng T2, cháu có nguyện vọng được tiếp tục sống chung với chị Th. Mặt khác, theo thu nhập, cũng như điều kiện nuôi con của chị Th đảm bảo hơn anh C. Do đó, giao chị Th trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu T2. Ghi nhận chị Th không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con. Anh C có quyền, nghĩa vụ thăm nom con, không ai được cản trở là phù hợp với các Điều 81, 82 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Về chia tài sản: Tài sản chung của chị Th và anh C gồm căn nhà cấp 4A, diện tích 97,74 m2, mái che diện tích 42,16 m2, nhà bếp diện tích 29,2 m2, tọa lạc tại Ấp LT, xã LH, Huyện TB, tỉnh Tây Ninh, có tổng giá trị 214.417.362 đồng. Xét về hoàn cảnh gia đình của chị Th và anh C, công sức đóng góp vào việc tạo lập, duy trì tài sản chung: Chị Th và anh C đều có nguyện vọng giao chị Th được quyền sở hữu toàn bộ nhà. Ông Ti, bà N, chị T1 đều đồng ý giao chị Th được quyền sở hữu nhà. Chị Th là người trực tiếp nuôi con nên cần giao chị Th được quyền sở hữu toàn bộ nhà và Th toán lại giá trị phần chênh lệch cho anh C. Tuy nhiên, công sức đóng góp để hình thành nhà chị Th đóng góp nhiều hơn nên chia chị Th được hưởng 2/3 giá trị căn nhà, tức 142.944.908 đồng và chị Th có nghĩa vụ Th toán lại cho anh C được hưởng số tiền chênh lệch tương đương 1/3 giá trị tài sản chung, tức là 71.472.454 đồng là phù hợp với Điều 59 Luật hôn nhân và gia đình.

[5] Nợ chung: Chị Th và anh C không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

[6] Án phí: Theo quy định tại khoản 8, khoản 9 Điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án.

- Án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm: Nguyên đơn (chị Th) nhận chịu 200.000 đồng, ghi nhận chị Th đã nộp đủ.

- Án phí dân sự sơ thẩm về chia tài sản chung: Các đương sự phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch tương ứng với giá trị tài sản được chia. Chị Th phải chịu 7.147.245 đồng, tương ứng với 5% giá trị tài sản được chia là 142.944.908 đồng; Anh C phải chịu 3.573.622 đồng, tương ứng với 5% giá trị tài sản được chia là 71.472.454 đồng.

[7] Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản: 1.500.000 đồng, anh C nhận chịu và đã nộp đủ nên ghi nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình.

Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Phạm Hồng Th và anh Nguyễn Văn C.

Căn cứ vào các Điều 33, 59, 81, 82 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 8, khoản 9 Điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về nuôi con chung:

1.1. Giao con chung Nguyễn Hồng T2, sinh ngày 27/8/2005 cho chị Phạm Hồng Th tiếp tục trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng.

1.2. Ghi nhận chị Th không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con.

1.3. Anh Nguyễn Văn C có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

2. Về chia tài sản:

2.1. Chia cho chị Phạm Hồng Th được quyền sở hữu: 01 căn nhà cấp 4A, diện tích 97,74 m2, mái che diện tích 42,16 m2, nhà bếp diện tích 29,2 m2, có tổng giá trị 214.417.362 đồng (Hai trăm mười bốn triệu, bốn trăm mười bảy nghìn, ba trăm sáu mươi hai) đồng. Nhà xây dựng trên phần diện tích đất trong thửa 137, tờ bản đồ 44, tọa lạc tại ấp Lộc Th (nay là Lộc Thọ), xã Lộc Hưng, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh do chị Phạm Hồng T1 đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

2.2. Chị Phạm Hồng Th phải Th toán lại cho anh Nguyễn Văn C phần chênh lệch số tiền 71.472.454 (Bảy mươi mốt triệu, bốn trăm bảy mươi hai nghìn, bốn trăm năm mươi bốn) đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

3. Nợ chung: Chị Th và anh C không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra giải quyết.

4. Án phí:

4.1. Chị Phạm Hồng Th nhận chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm mà chị Th đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007964 ngày 05/10/2016 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh. (chị Th đã nộp đủ án phí về việc ly hôn).

4.2. Chị Phạm Hồng Th phải chịu 7.147.245 (Bảy triệu, một trăm bốn mươi bảy nghìn, hai trăm bốn mươi lăm) đồng án phí dân sự sơ thẩm về việc chia tài sản chung.

4.3. Anh Nguyễn Văn C phải chịu 3.573.622 (Ba triệu, năm trăm bảy mươi ba nghìn, sáu trăm hai mươi hai) đồng án phí dân sự sơ thẩm về việc chia tài sản chung.

Được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm là 5.000.000 (Năm triệu) đồng mà anh C đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0008065 ngày 14/10/2016 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trảng Bàng. Hoàn trả cho anh C 1.426.378 (Một triệu, bốn trăm hai mươi sáu nghìn, ba trăm bảy mươi tám) đồng.

5. Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản: 1.500.000 (Một triệu năm trăm nghìn) đồng. Anh C nhận chịu, ghi nhận anh C đã nộp đủ.

Chị Phạm Hồng Th, anh Nguyễn Văn C, chị Phạm Hồng T1 được quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng ông Phạm Văn Ti và bà Võ Thị N được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị Cỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

328
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 78/2017/HNGĐ-ST ngày 08/08/2017 về tranh chấp ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn

Số hiệu:78/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Trảng Bàng - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về