Bản án 77/2021/HS-ST ngày 14/09/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN SƠN TRÀ - THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 77/2021/HS-ST NGÀY 14/09/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 79/2021/TLST-HS ngày 03 tháng 8 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 79/2021/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 8 năm 2021 đối với các bị cáo:

Họ và tên: Lê Văn L; Tên gọi khác: Cu Ba; Sinh ngày: 04/01/1988 tại Đà Nẵng; Nơi cư trú: Tổ 68 phường N, quận S, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ văn hóa: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: phật giáo;; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Văn C, sinh năm: 1966 và bà Trương Thị A, sinh năm 1964; Gia đình có 05 chị em, bị cáo là con thứ hai; Có vợ: Trần Thị N, sinh năm: 1986 và 02 con, con lớn sinh năm 2008, con nhỏ sinh năm 2018;

Tiền án: Ngày 02/3/2019 bị Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 09/2019/HS-ST;

Tiền sự: Ngày 11/9/2018 bị Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời gian 15 tháng;

Nhân thân: Ngày 24/01/2017, bị Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời gian 12 tháng.

Bị cáo hiện đang bị tạm giam tại Nhà Tạm giữ Công an quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng (Có mặt).

Họ và tên: Nguyễn Ngọc V; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 15/8/1993 tại Đà Nẵng; Nơi cư trú: Số 120 đường B, phường N, quận S, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ văn hóa: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn H, sinh năm: 1973 và bà Ngô Thị Thu H, sinh năm 1973; Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ nhất; có vợ: Đặng Thị Kim C, sinh năm: 1993 và có 01 con sinh năm 2015;

Tiền án: Không; Tiền sự: Không.

Bị cáo hiện đang bị tạm giam tại Nhà Tạm giữ Công an quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng (Có mặt).

- Bị hại: Trịnh Thị H, sinh năm: 1991, Nơi ĐKHKTT Xóm N, thôn H, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng, chỗ ở hiện nay: số 197 đường N, quận S, thành phố Đà Nẵng. (Vắng mặt)

 - Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Bùi Khắc K, sinh năm: 1964, địa chỉ: số 68 đường T, tổ 40 phường A, quận S, thành phố Đà Nẵng. (Vắng mặt)

 - Người làm chứng: Ông Nguyễn Văn L, sinh năm: 1968, địa chỉ: Tổ 80 A, phường A, quận S, thành phố Đà Nẵng. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 19 giờ ngày 02/4/2021, sau khi sử dụng ma túy tại phường Nại Hiên Đông, quận Sơn Trà, Nguyễn Ngọc V rủ Lê Văn L đi trộm cắp tài sản để có tiền tiêu xài thì L đồng ý. V sử dụng xe mô tô BKS 43H7-7147 chở L đi quanh các tuyến đường trên địa bàn quận Sơn Trà để trộm cắp tài sản. Đến khoảng 19 giờ 30 phút cùng ngày, khi đến trước cơ sở S tại số 102 đường V, phường P, quận S do chị Trịnh Thị H làm chủ, nhưng không có người trông coi, quản lý, cửa sổ tầng 2 mở nên V chỉ cho L thấy và V dừng xe lại. L nói V đứng ngoài cảnh giới rồi L trèo lên mái tôn tầng một và chui qua cửa sổ để vào tầng hai cơ sở spa. Khi vào bên trong cơ sở Spa, L lấy 02 máy lọc không khí hiệu Winna và Fuji chuyển ra ngoài cho V thì bị lực lượng tuần tra Công an phường Phước Mỹ phát hiện, lập biên bản và tiến hành thu giữ tang vật.

Vật chứng tạm giữ:

- 01 máy lọc không khí hiệu Winna và 01 máy lọc không khí hiệu Fuji. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Sơn Trà đã ra quyết định trả lại cho chủ sở hữu chị Trịnh Thị H;

- 01 xe mô tô BKS 43H7-7147.

Tại kết luận định giá số 27/KL-HDĐGTSTTHS ngày 26/5/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Sơn Trà kết luận: Tổng giá trị của hai máy lọc không khí là 5.800.000 đồng.

Về phần dân sự: Chị Trịnh Thị H đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường.

Tại bản Cáo trạng số 75/CT-VKS ngày 02/8/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng đã truy tố các bị cáo Lê Văn L, Nguyễn Ngọc V về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Qua xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo Lê Văn L, Nguyễn Ngọc V về tội “Trộm cắp tài sản” Đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự xử phạt Lê Văn L mức hình phạt từ 12 tháng đến 15 tháng tù.

Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt Nguyễn Ngọc V mức hình phạt từ 12 tháng đến 15 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu gì nên không đề cập xử lý.

Về xử lý vật chứng:

Cơ quan Cảnh sát điều tra công an quận Sơn Trà đã trả lại tài sản là 01 máy lọc không khí hiệu Winna và 01 máy lọc không khí hiệu Fuji cho chủ sở hữu chị Trịnh Thị H là phù hợp;

Đối với 01 xe mô tô BKS 43H7-7147 do chị Nguyễn Thị Lệ T trú tại tổ 55 phường Hòa Cường, thành phố Đà Nẵng đứng tên chủ sở hữu. Hiện chị T không còn đăng ký hộ khẩu tại địa phương, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Sơn Trà tiếp tục tách ra, xử lý sau.

Ngoài ra, quá trình điều tra chị Trịnh Thị H còn khai nhận: Sau khi phát hiện mất tài sản tại cơ sở spa G tại số 102 đường V, phường P vào ngày 02/4/2021, chị H đã nhờ anh Bùi Khắc K đến kiểm tra thì phát hiện cơ sở còn bị mất nhiều tài sản với tổng trị giá khoảng 675.000.000 đồng. Tuy nhiên, chị H chưa trình báo với cơ quan chức năng và sẽ có đơn đề nghị xử lý sau. Đồng thời, các bị can Lê Văn L, Nguyễn Ngọc V khai nhận chỉ lấy trộm 01 máy lọc không khí hiệu Winna và 01 máy lọc không khí hiệu Fuji tại cơ sở Spa G vào ngày 02/4/2021 và không thực hiện hành vi trộm cắp nào khác.

Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, không có ý kiến tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng bị cáo Lê Văn L nói xin được giảm nhẹ hình phạt trở về lo cho con nhỏ, bị cáo Nguyễn Ngọc V nói bị cáo đã nhận thức hành vi của mình là sai trái, bị cáo phạm tội lần đầu, xin giảm nhẹ hình phạt để về với gia đình.

Lời khai của người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng phù hợp với lời khai của các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Sơn Trà, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, người bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. [2]. Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Qua xem xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa, quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà và các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định:

Vào khoảng 19 giờ ngày 02/4/2021, tại cơ sở Spa Gup Go tại số 102 đường V, phường P, quận S, thành phố Đà Nẵng, Lê Văn L và Nguyễn Ngọc V đã có hành vi lén lút lấy 02 máy lọc không khí hiệu Winna và Fuji của chị Trịnh Thị H trị giá 5.800.000 đồng. Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Do đó, Cáo trạng số 75/CT-VKS ngày 02/8/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng đã truy tố các bị cáo Lê Văn L, Nguyễn Ngọc V về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3]. Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: các bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, đã cố ý lợi dụng sơ hở trong việc quản lý tài sản của người bị hại trộm cắp tài sản trị giá 5.800.000 đồng. Các bị cáo là đồng phạm nhưng không mang tính tổ chức, chỉ tự phát sau khi cả hai có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Đối với bị cáo Nguyễn Ngọc V là người rủ rê, chuẩn bị xe để làm phương tiện để đi tìm tài sản trộm cắp, đứng bên ngoài cảnh giới còn bị cáo Lê Văn L là người trực tiếp trộm cắp mang tài sản ra bên ngoài, hành vi của các bị cáo đều nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Do đó, cần phải quyết định một mức hình phạt nghiêm khắc mới tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của cả hai bị cáo.

[4]. Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của từng bị cáo:

Bị cáo Lê Văn L có nhân thân xấu, có 01 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” và 01 tiền sự bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính cai nghiện bắt buộc về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, ngoài ra trước đây cũng đã bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính cai nghiện bắt buộc, bị cáo phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm theo quy định tại khoản 1 Điều 53 Bộ luật Hình sự, do đó bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, phạm tội gây thiệt hại không lớn nên Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

Bị cáo Nguyễn Ngọc V có nhân thân tốt. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, phạm tội gây thiệt hại không lớn, trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

[5]. Về biện pháp chấp hành hình phạt: Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần thiết áp dụng hình phạt tù, cách ly cả hai bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục đối với các bị cáo và phòng ngừa chung. Đối với bị cáo Lê Văn L có nhân thân xấu, có tiền án, tiền sự, bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tái phạm do đó mức hình phạt phải cao hơn bị cáo Nguyễn Ngọc V.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy không có căn cứ xác định được thu nhập, tài sản của các bị cáo nên không áp dụng hình phạt tiền bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

[7]. Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại chị Trịnh Thị H đã nhận lại tài sản, không yêu cầu các bị cáo bồi thường nên không đề cập giải quyết.

[8]. Về xử lý vật chứng:

Đối với 02 máy lọc không khí hiệu Winna và Fuji, Cơ quan Cảnh sát điều tra công an quận Sơn Trà đã trả lại cho chủ sở hữu là chị Trịnh Thị H thấy phù hợp với quy định của pháp luật nên không đề cập xử lý.

Đối với 01 xe mô tô BKS 43H7-7147 do Nguyễn Ngọc V sử dụng để làm phương tiện đi trộm cắp, qua điều tra xác định xe này do chị Nguyễn Thị Lệ T trú tại tổ 55 phường Hòa Cường, thành phố Đà Nẵng đứng tên chủ sở hữu, hiện chị T không còn đăng ký hộ khẩu tại địa phương, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Sơn Trà tiếp tục tách ra, xử lý sau là phù hợp.

[9]. Các vấn đề khác: Hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Lê Văn L và Nguyễn Ngọc V Công an quận Sơn Trà đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính là đúng với quy định của pháp luật.

[10]. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng.

[11]. Xét các đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về áp dụng điều luật, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là cơ bản phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: các bị cáo Lê Văn L, Nguyễn Ngọc V phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1. Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm h, s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Văn L 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt giữ ngày 15/6/2021.

Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc V 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt giữ ngày 15/6/2021.

2. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Các bị cáo Lê Văn L, Nguyễn Ngọc V phải chịu mỗi bị cáo 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Quyền kháng cáo: Các bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; Người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 77/2021/HS-ST ngày 14/09/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:77/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Sơn Trà - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về