Bản án 77/2019/HSST ngày 19/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐTH, TỈNH TH

BẢN ÁN 77/2019/HSST NGÀY 19/03/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 03 năm 2019 tại Hội trường Toà án nhân dân thành phốTH, tỉnhTH xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 18/HSST ngày 15/01/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2019/QĐXXST-HS ngày 11/02/2019 đối với bị cáo:

- Họ và tên: Phạm Văn T, sinh ngày 19 tháng 02 năm 2002.(Thời điểm phạm tội 16 tuổi 6 tháng 24 ngày).

- Tên gọi khác: Không - Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn Hồng Phong 3, xã Chiến Thắng, huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn.

- Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không.; Trình độ học vấn: 05/12; Con ông: Phạm Văn Đông, sinh năm: 1968; Con bà: Nguyễn Thị Mai, sinh năm: 1972; Đều trú tại: Thôn Hồng Phong 3, xã Chiến Thắng, huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn; Gia đình có 03 chị em, bị cáo là con thứ ba trong gia đình; Chưa có vợ, con; Tiền án: Không.

- Tiền sự: Ngày 17/7/2017 Ủy ban nhân dân xã Chiến Thắng, huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn ra Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn thời hạn 03 tháng từ ngày 17/07/2017 đến ngày 17/10/2017( đã chấp hành xong ngày 17/10/2017).

- Nhân thân:

+ Ngày 12/05/2017 Công an xã Vũ Lễ, huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn xử phạt hành chính bằng hình thức „cảnh cáo” về hành vi “Trộm cắp tài sản”;

+ Ngày 19/06/2017 Công an xã Vũ Sơn, huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn xử phạt hành chính bằng hình thức „cảnh cáo” về hành vi “Trộm cắp tài sản”;

+ Ngày 15/08/2017 Công an xã Chiến Thắng, huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn xử phạt hành chính bằng hình thức „cảnh cáo” về hành vi “Trộm cắp tài sản”;

Bị cáo đang bị tạm giam tại trại Tạm giam Công an tỉnhTH (bị bắt truy nã từ ngày 30/11/2018 đến nay). Có mặt tại phiên tòa.

* Người đại diện hợp pháp cho bị cáo: Bà Nguyễn Thị M, sinh năm: 1972; (mẹ đẻ bị cáo).

Trú tại: Thôn Hồng Phong 3, xã Chiến Thắng, huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn (Có mặt).

* Người bào chữa cho bị cáo: Bà Lê Thúy Hằng, Trợ giúp viên của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Thái Nguyên. (Có mặt).

* Người bị hại: Chị Hoàng Thị Ngọc Hg, sinh năm 1983.

Đa chỉ: Tổ 29, phường Quang Trung, TP.TH, tỉnhTH. (Vắng mặt).

*Ngưi có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Văn S, sinh năm 2001(Có đơn xin xét xử vắng mặt).

Đa chỉ: Xóm Xuân Đám, xã Đồng Liên, thành phốTH.

* Người làm chứng:

1.Anh Nguyễn Thành Tr, sinh năm 1979.

Đa chỉ: Tổ 29, phường Quang Trung, TP.TH, tỉnhTH (vắng mặt).

2. Anh Phùng Ngọc Tn, sinh năm 1999.

Đa chỉ: Xóm Đồng Tính, xã Việt Chu, huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Văn T là đối tượng không có nghề nghiệp, thường xuyên lang thang và chơi điện tử tại các quán Internet. Khoảng 19 giờ ngày 14/9/2018,T cùng bạn là anh Phùng Ngọc Tuân(sinh năm 1999; Địa chỉ: Xóm Đồng Tính, xã Việt Chu, huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng) đi bộ từ cửa hàng Internet Royal thuộc tổ 17, phường Đồng Quang, thành phốTH đến quán ăn Hà Linh thuộc tổ 29, phường Quang Trung, TPTH để ăn phở. Khi đến quán ăn,T vào nhà vệ sinh và phát hiện có 02 chiếc điện thoại di động (01 chiếc điện thoại Iphone 6S màu xám – đen và 01 chiếc điện thoại di động Sam sung Galaxy J2) là tài sản của chị Hoàng Thị Ngọc Hường(sinh năm 1983; địa chỉ: Tổ 29, phường Quang Trung, TP.TH, tỉnhTH) đặt trên thùng sơn kê trong bếp ăn. Quan sát thấy tài sản không có người quản lý, trông coi nênT nảy sinh ý định trộm cắp 02 chiếc điện thoại đi động nên trên. Sau khi đi vệ sinh xong,T đi lên gian bán hàng ngồi đợi chị Hường làm thức ăn. Khoảng 05 phút sau,T giả vờ tiếp tục đi vệ sinh để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Khi đến khu vực đặt 02 chiếc điện thoại di độngT quan sát xung quanh thấy không có ai.T đã lén lút dùng tay phải lấy cả hai chiếc điện thoại trên và để vào bên trong chiếc túi khoác chéo trên vai màT đang đeo sau đó kéo đóng khóa túi lại. Sau khi lấy được tài sảnT tiếp tục ra ngoài ăn với bạn rồi về quán Internet Royal, vào trang cá nhân Facebook, nhắn tin cho anh Nguyễn Văn Sang (sinh năm 2001; Địa chỉ: Xóm Xuân Đám, xã Đồng Liên, thành phốTH) có nick Facebook là “Nguyễn Văn Sang” và hỏi anh Sang có mua điện thoại di động bị khóa màn hình không. Anh Sang hẹnT ở đường tròn Gang Thép, thành phốTH để xem máy,T đồng ý. Sau đóT thuê xe taxi đến đường tròn Gang Thép. Tại đâyT nói với anh Sang đây là điện thoại củaT, doT quên mật khẩu nên muốn bán. Anh Sang đồng ý mua với giá 500.000 đồng.T đồng ý, nhận tiền rồi đưa máy cho anh Sang sau đó quay về quán Internet Royal.

Khong 21 giờ cùng ngày, chị H phát hiện mất tài sản nên đã cùng chồng là anh Nguyễn Thành Tr (sinh năm 1979; Địa chỉ: Tổ 29, phường Quang Trung, TP.TH, tỉnhTH) đi tìm. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, anh Trung đến quán Internet Royal tìm gặp đượcT, anh Trung hỏiT có lấy điện thoại không thìT đã thừa nhận việc lấy trộm hai chiếc điện thoại di động tại quán phở nhà anh Trung. Ngày 15/09/2018 chị Hoàng Thị Ngọc H đã trình báo sự việc bị mất trộm tài sản đến Công an phường Quang Trung, thành phốTH.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 274 ngày 23/9/2018 của Hội đồng Định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phốTH kết luận: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S, phiên bản 64GB màu xám – đen đã qua sử dụng có giá: 5.500.000 đồng; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung Galaxy J2 màu vàng, đã qua sử dụng có giá 1.500.000 đồng. Tổng giá trị các tài sản trên là: 7.000.000 đồng.

Tại Cơ quan điều tra Phạm Văn T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nêu trên. Lời khai củaT phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, lời khai của người bị hại, lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ.

Vt chứng của vụ án: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S, phiên bản 64GB màu xám – đen đã qua sử dụng; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung Galaxy J2 màu vàng, đã qua sử dụng (Hiện vật chứng trên đã thu hồi trả lại cho chủ sở hữu là chị Hoàng Thị Ngọc H quản lý sử dụng. Chị H không có yêu cầu, đề nghị gì thêm); 300.000 đồng tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam; 01 chiếc túi màu đen, kiểu túi khoác chéo, kích thước 30 x17 cm, mặt túi có chữ Boshijie hiện đang lưu giữ tại tài khoản và kho của Chi cục thi hành án dân sự thành phốTH.

Tại bản cáo trạng số 25/CT-VKSTPTN ngày 15/01/2019 Viện kiểm sát nhân dân thành phốTH, tỉnhTH đã truy tố Phạm Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Kết thúc phần thẩm vấn, tại phần tranh luận, vị đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phốTH giữ quyền công tố đã công bố bản luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố. Sau khi phân tích, đánh giá các chứng cứ, vị đại diện VKS đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Phạm Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Đề nghị: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s, h, i khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 101 Bộ luật hình sự, xử phạt Phạm Văn T từ 09 tháng đến 12 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

* Về vật chứng: Áp dụng điều 47 BLHS; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy; 01 chiếc túi màu đen, kiểu túi khoác chéo, kích thước 30 x17 cm, mặt túi có chữ Boshiji e, đã qua sử dụng.

- Tam giữ số tiền 300.000 đồng tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam để đảm bảo thi hành án.

- Truy thu số tiền 500.000 đồng do bị cáo phạm tội mà có.

* Về trách nhiệm dân sự: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S, phiên bản 64GB màu xám – đen đã qua sử dụng; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung Galaxy J2 màu vàng, đã qua sử dụng (Hiện vật chứng trên đã thu hồi trả lại cho chủ sở hữu là chị Hoàng Thị Ngọc H quản lý sử dụng. Chị H không có yêu cầu, đề nghị gì thêm).

Đi với anh Nguyên Văn S là người mua hai chiếc điện thoại di động của bị cáoT với giá 500.000 đồng, anh S không biết đây là tài sản bị cáo trộm cắp mà có, anh Sang đã giao nộp hai chiếc điện thoại trên cho Cơ qan điều tra, không có yêu cầu gì đối với bị cáoT về số tiền trên, nên không xem xét.

Trong phần tranh luận: Bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát.

Người bào chữa cho bị cáo Phạm Văn T: Xác định Viện kiểm sát truy tố bị cáo về hành vi trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội, không bị oan. Tuy nhiên bị cáo phạm tội ở tuổi vị thành niên nên nhận thức về pháp luật của bị cáo còn hạn chế, do hoàn cảnh gia đình của bị cáo từ nhỏ bố mẹ, anh chị em đi làm ăn xa nên bị cáo không được gia đình giáo dục và quản lý chặt chẽ dẫn đến bị bạn bè xấu lôi kéo. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năm hối cải, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, phạm tội chưa gây thiệt hại nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; áp dụng Điều 91 Bộ luật hình sự cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, của Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quanT hành tố tụng, ngườiT hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quanT hành tố tụng, ngườiT hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

[2] . Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa là khách quan, phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, vật chứng thu được và các chứng cứ tài liệu khác được thu thập hợp lệ có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định bị cáo Phạm Văn T có hành vi trộm cắp tài sản 02 chiếc điện thoại di động của chị Hoàng Thị Ngọc Hường có tổng giá trị: 7.000.000 đồng. Sau khi trộm cắp tài sản bị cáo đem bán được 500.000 đồng mục đích để tiêu xài cá nhân. Khi bị phát hiện, tài sản đã được thu hồi trả cho người bị hại. Hành vi của các bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

[3]. Bản cáo trạng số của Viện kiểm sát nhân dân thành phốTH truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ.

Ni dung Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 quy định như sau:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng …, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.”

[4] . Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo được hưởng:

- Xét tính chất của vụ án là ít nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu đối với tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ.

Đi chiếu với các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, quá trình điều tra và tại phiên tòa khai báo thành khẩn, phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h, s, i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự và không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo Điều 52 Bộ luật hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, năm 2017, bị cáo đã bị 04 lần bị ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính với hình phạt cảnh cáo về hành vi trộm cắp tài sản, bị cáo còn bị áp dục biện pháp giáo dục tại xã phường, nhưng do không chịu tu dưỡng bản thân, thích ăn chơi đua đòi nên đã phạm tội. Bị cáo là người chưa đủ 18 tuổi (tính đến thời điểm phạm tội bị cáo mới 16 tuổi 6 tháng 24 ngày) đã phạm tội.

[5]. Về hình phạt: Để đảm bảo tính nghiêm minh của luật pháp cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung. Quá trình điều tra bị cáo được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, tuy nhiên bị cáo đã bỏ trốn tại địa phương, nên đã bị bắt tạm giam theo lệnh truy nã của cơ quan Điều tra. Xét thấy hình phạt và biện pháp giáo dục khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa đối với bị cáo, nên cần áp dụng hình phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định khi bị cáo mới có tác dụng giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt có ích cho xã hội. Mức hình phạt mà vị đại diện viện kiểm sát đề nghị là phù hợp cần được chấp nhận.

* Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là vị thành niên, không có tài sản gì riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6]. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu đề nghị gì khác, nên không xem xét.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; Anh Nguyễn Văn S có đơn xin xét xử vắng mặt và không yêu cầu bị cáo bồi thường, nên không xem xét

[7]. Về vật chứng:

- Tch thu tiêu hủy; 01 chiếc túi màu đen, kiểu túi khoác chéo, kích thước 30 x17cm, mặt túi có chữ Boshijie, túi đã qua sử dụng.

- Tạm giữ để thi hành án số tiền 300.000 đồng tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam để đảm bảo thi hành án.

- Truy thu số tiền 500.000 đồng do bị cáo phạm tội mà có.

[8]. Về các vấn đề khác: Trong vụ án này có anh Nguyên Văn S: là người mua hai chiếc điện thoại di động của bị cáoT với giá 500.000 đồng, anh Sang không biết đây là tài sản bị cáo trộm cắp mà có , anh Sang đã giao nộp hai chiếc điện thoại trên cho Cơ qan điều tra nên Cơ quan cảnh sát Điều tra Công an thành phốTH không xử lý.

[9]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm

[10]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: bị cáo Phạm Văn T phạm tội: “Trộm cắp tài sản”

Căn cứ vào: Khoản 1 điều 173, điểm h, s, i khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 91; 101 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Phạm Văn T: 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 30/11/2018.

Áp dụng Điều 329, 419 Bộ luật tố tụng hình sự; Quyết định tạm giam bị cáo 30 ngày để đảm bảo thi hành án.

2. Vật chứng vụ án: Áp dụng điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS:

- Tạm giữ số tiền 300.000 đồng tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam để đảm bảo thi hành án.

- Truy thu số tiền 500.000 đồng do bị cáo phạm tội mà có.

- Tch thu tiêu hủy; 01 chiếc túi màu đen, kiểu túi khoác chéo, kích thước 30 x17 cm, mặt túi có chữ Boshijie, túi đã qua sử dụng.

(Vt chứng hiện đang lưu giữ, bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự thành phốTH theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 162 ngày 18/02/2019; Ủy nhiệm chỉ số 05 ngày 23/01/2019).

3. Trách nhiệm dân sự: Không xem xét.

4. Về án phí: căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí , lệ phí Toà án; b uộc bị cáo phải nộp 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm bị cáo, người đại diện cho bị cáo, người bào chữa cho bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

279
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 77/2019/HSST ngày 19/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:77/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về