TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 77/2019/HSST NGÀY 10/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 10 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 63/2019/HSST ngày 20 tháng 3 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 70/2019/QĐST-HS ngày 29 tháng 3 năm 2019 đối với các bị cáo:
1. Họ và tên: NGUYỄN VIẾT S. Sinh ngày 29 tháng 6 năm 2002; Tại: thành phố Hà Nội. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn Đ, xã L, huyện C, thành phố Hà Nội. Chỗ ở hiện nay: Không nơi ở nhất định. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 07/12; Con ông: Nguyễn Viết T, sinh năm 1978; Con bà: Nguyễn Thị Y, sinh năm 1981. Hiện cùng trú tại: Thôn Đ, xã L, huyện C, thành phố Hà Nội; Tiền án: Không; tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/12/2018, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố B –Có mặt.
2. Họ và tên: PHẠM THẾ Đ; Sinh ngày 30 tháng 8 năm 1993; Tại: tỉnh Thái Bình. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 37, phường H, thành phố T1, tỉnh Thái Bình. Chỗ ở hiện nay: Không nơi ở nhất định. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 12/12; Con ông: Phạm Xuân Đ1, đã chết; Con bà: Trần Thị T2, sinh năm 1970. Hiện trú tại: Tổ 37, phường H, thành phố T1, tỉnh Thái Bình; Tiền án: Không; tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/12/2018 , hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố B –Có mặt.
Người đại diện theo pháp luật của bị cáo Nguyễn Viết S: Ông Nguyễn Viết T – Sinh năm 1978. Địa chỉ: Thôn Đ, xã L, huyện C, thành phố Hà Nội.
Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Viết S: Bà Phan Thị Th –Trợ giúp viên pháp lý –Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Đắk Lắk.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Ông Y T3 Ayun –Sinh năm 1960. Địa chỉ: Buôn M, xã C1, huyện K, tỉnh Đắk Lắk –Vắng mặt.
- Chị Hà Hồng L Niê –Sinh năm 1994. Địa chỉ: Buôn M, xã C1, huyện K, tỉnh Đắk Lắk –Có mặt.
Người làm chứng:
- Ông Đoàn Văn Tr –Sinh năm 1959. Địa chỉ: Tổ dân phố 2, phường T3, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk –Vắng mặt.
- Ông Nguyễn Viết H –Sinh năm 1960. Địa chỉ: Tổ dân phố 2, phường T3, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk –Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Viết S và Phạm Thế Đ là các đối tượng nghiện ma túy, loại Methamphetmine từ năm 2018. Vào khoảng 21 giờ 30 phút ngày 03/12/2018, S đi bộ đến phòng trọ của Đ tại địa chỉ số 09/16 Nguyễn Duy T, phường T4, tp B, tỉnh Đắk Lắk. Tại đây, do Đ có 285.000 đồng, nên đã rủ S góp thêm 15.000 đồng để mua ma túy cùng sử dụng thì S đồng ý. Sau đó, Đ điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Aiblade, biển số 47B1-262.90 chở S đi đến khu vực Lâm Viên, đường P, phường T3, thành phố B. Đến nơi Đ xuống xe đi vào đường hẻm gặp 01 người phụ nữ (không rõ nhân thân lai lịch) mua ma túy với số tiền 300.000 đồng. Đ nhận lấy 01 gói nylon chứa chất rắn dạng tinh thể từ người phụ nữ đi ra đưa cho S cầm, rồi Đ điều khiển xe chở S đi về tìm nơi sử dụng thì bị Công an phường T3, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk phát hiện, bắt quả tang về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma tuý.
Tang vật thu giữ của Nguyễn Viết S gồm: 01 gói nylon chứa chất rắn dạng tinh thể được niêm phong theo quy định.
Tại bản kết luận giám định số 1081/GĐMT-PC09 ngày 12/12/2018, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk, kết luận: Chất rắn dạng tinh thể đựng trong 01 gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma tuý, có khối lượng 0,1615 gam, loại Methamphetamine.
Tại bản cáo trạng số 87/CT-VKS ngày 18 tháng 3 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B truy tố các bị cáo Phạm Thế Đ và Nguyễn Viết S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã khai tại Cơ quan điều tra và theo nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố.
Quá trình tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đã đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của từng bị cáo và giữ nguyên quyết định truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, và xử phạt:
-Đối với bị cáo Phạm Thế Đ: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm o khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự . Xử phạt: bị cáo Phạm Thế D từ 18 tháng đến 24 tháng tù.
-Đối với bị cáo Nguyễn Viết S: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 91, khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Viết S từ 12 tháng đến 18 tháng tù
Các biện pháp tư pháp: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
- Tịch thu, tiêu hủy 0,1019 gam ma tuý loại Methamphetamine trong gói niêm phong số 1081/GĐMT-PC09 ngày 12/12/2018 còn lại sau giám định là tang vật của vụ án.
- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Viết S 01 điện thoại di động hiệu Apple Iphone 6, gắn sim không xác định số thuê bao, không liên quan đến hành vi phạm tội nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án.
Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Viết S trình bày luận cứ bào chữa như sau:
Về phần tội danh, bị cáo đã thừa nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nên việc Viện kiểm sát truy tố bị cáo theo điểm c khoản 1 Điêu 249 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị là quá nghiêm khắc vì xét về vai trò, bị cáo tham gia phạm tội là đồng phạm do bị rủ rê, lôi kéo, các bị cáo cũng không phân công nhiệm vụ gì, số lượng ma túy tàng trữ là rất ít. Bị cáo phạm tội khi là người chưa thành niên, trình độ học vấn thấp nên nhận thức có phần hạn chế. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo luôn có thái độ thành khẩn, biết ăn năn, hối cải, tự nguyện giao nộp tang vật khi bị phát hiện. Ông nội của bị cáo được Nhà nước tặng Huân chương chiến sỹ giải phóng hạng nhì, vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 91, Điều 101, khoản 3 Điều 54 Bộ luật hình sự cho bị cáo hưởng mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt để bị cáo có điều kiện học tập, cải tạo và nhanh chóng hòa nhập với cộng đồng xã hội, thành người công dân tốt.
Đại diện Viện kiểm sát xác định, mức hình phạt từ 12 tháng đến 18 tháng tù mà Viện kiểm sát đề nghị là đã căn cứ vào tính chất, vai trò, hành vi phạm tội, đã xem xét về nhân thân của bị cáo, đã đánh giá toàn diện, đầy đủ vào các chứng cứ, lời khai có trong hồ sơ vì vậy mức hình phạt trên là hoàn toàn phù hợp.
Người đại diện theo pháp luật của bị cáo Nguyễn Viết S không có ý kiến tranh luận gì, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, do bị cáo còn nhỏ, nhận thức hạn chế nên đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
Các bị cáo không có ý kiến tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra và kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Xét hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến việc quản lý độc quyền của Nhà nước về ma túy, đồng thời còn gây mất ổn định trị an xã hội. Khi thực hiện hành vi phạm tội các bị cáo nhận thức được rằng, Methamphetamine là chất ma túy, đó là loại độc dược gây nghiện nên Nhà nước độc quyền quản lý và nghiêm cấm mọi hành vi sản xuất, tàng trữ, mua bán, vận chuyển, chiếm đoạt và sử dụng trái phép. Song do lối sống không lành mạnh, nghiện ngập, nên vào khoảng 21 giờ 30 phút ngày 03/12/2018, tại khu vực Lâm Viên, đường P, phường T3, thành phố B, bị cáo Nguyễn Viết S và Phạm Thế Đ có hành vi tàng trữ 0,1615 gam ma tuý, loại Methamphetamine để sử dụng thì bị Công an phường T3, thành phố B phát hiện bắt quả tang.
Lời khai của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với nội dung bản cáo trạng đã truy tố, phù hợp với lời khai của người làm chứng, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà.
[2].Lời luận tội của Đại diện Viện kiểm sát đã phân tích, chứng minh đầy đủ các tình tiết liên quan đến hành vi phạm tội, cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, như vậy quyết định truy tố các bị cáo Phạm Thế Đ và Nguyễn Viết S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Luận cứ bào chữa của người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Viết S cũng đã thể hiện đầy đủ về hành vi, vai trò của bị cáo trong vụ án, đồng thời cũng đã thể hiện được các ý kiến về việc xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo theo quy định của pháp luật.
Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở kết luận các bị cáo Phạm Thế Đ và Nguyễn Viết S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249.
Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a,……;
b,……;
c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.
Trong vụ án này có hai bị cáo tham gia, thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn, các bị cáo đều là đối tượng nghiện ma túy. Bị cáo Phạm Thế Đ là người rủ rê, lôi kéo bị cáo S vào việc đi mua ma túy cùng sử dụng và góp số tiền 285.000 đồng, cũng là người trực tiếp vào mua ma túy, nên cần áp dụng mức hình phạt đối với bị cáo Đ cao hơn bị cáo S. Đối với bị cáo Nguyễn Viết S, tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo là người chưa thành niên, bị cáo là người bị bị cáo Đ rủ rê vào việc đi mua ma túy, bị cáo góp số tiền ít hơn, chỉ có 15.000 đồng, nên cũng cần phải xem xét mức hình phạt cho bị cáo phù hợp với quy định của pháp luật về người chưa thành niên. Vì vậy cần phải cách ly cả hai bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định, như vậy mới có đủ tác dụng răn đe đối với các bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung trong toàn xã hội.
[3].Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cần áp dụng cho các bị cáo trong khi lượng hình. Bị cáo S là người chưa thành niên, tại thời điểm phạm tội, bị cáo chỉ mới 16 tuổi 5 tháng 26 ngày, ông nội bị cáo S là người được trao tặng Huân chương chiến sĩ giải phóng hạng nhì, vì vậy cần áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự và chế định người chưa thành niên phạm tội cho bị cáo S để giảm nhẹ một phần hình phạt, đồng thời thể hiện được chính sách khoan hồng, nhân đạo của pháp luật Nhà nước ta.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Phạm Thế Đ có hành vi rủ rê, xúi giục người chưa thành niên phạm tội, vì vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự đối với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Xúi giục người chưa đủ 18 tuổi phạm tội” theo quy định tại điểm o khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
Bị cáo Nguyễn Viết S không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[4].Về các biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
- Xét thấy 0,1019 gam ma tuý loại Methamphetamine trong gói niêm phong số 1081/GĐMT-PC09 ngày 12/12/2018 còn lại sau giám định là tang vật của vụ án không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu để tiêu hủy.
- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Apple Iphone 6, gắn sim không xác định số thuê bao, là tài sản của bị cáo Nguyễn Viết S không liên quan đến hành vi phạm tội, cần phải trả lại cho bị cáo nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án.
Đối với 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade, mang biển số 47B1-262.90, số khung RLHJF2705BY157449, số máy JF27E1003492 là tài sản hợp pháp của ông Y T3 Ayun, tháng 10/2018, ông Y T3 Ayun cho con gái là chị Hà Ly H Niê mượn làm phương tiện đi lại, sau đó chị Hà Ly H Niê cho bị cáo Phạm Thế Đ mượn sử dụng, ngày 03/12/2018, bị cáo Đ sử dụng đi mua ma túy. Ông Y T3 Ayun và chị Hà Ly Hg Niê không biết và không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo Phạm Thế Đ và Nguyễn Viết S. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B ra quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe trên cho ông Y T3 Ayun nhận quản lý, sử dụng là phù hợp.
Đối với nguồn Methamphetamine các bị cáo khai nhận mua của người phụ nữ (không biết họ tên, địa chỉ) tại khu vực Lâm Viên đường P, phường T3, thành phố B, do chưa xác minh được nhân thân, lai lịch của người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã tách hành vi bán ma túy ra khỏi vụ án để tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau là đúng quy định của pháp luật.
[5].Về hành vi của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình thực hiện các quyết định điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Phạm thế Đ và Nguyễn Viết S không xuất trình thêm chứng cứ tài liệu gì, bị cáo cũng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.
[6].Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố các bị cáo Phạm Thế Đ và Nguyễn Viết S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm o khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Bị cáo PHẠM THẾ Đ 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 03/12/2018.
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 91, khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Bị cáo NGUYỄN VIẾT S 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 03/12/2018.
Về các biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
- Tịch thu, tiêu hủy 0,1019 gam ma tuý loại Methamphetamine còn lại sau giám định là tang vật của vụ án trong gói niêm phong số 1081/GĐMT-PC09 ngày 12/12/2018.
- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Viết S 01 điện thoại di động hiệu Apple Iphone 6, gắn sim không xác định số thuê bao nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án.
Tang vật có đặc điểm như trong biên bản giao nhân vật chứng ngày 19/3/2019 được lưu trong hồ sơ vụ án.
Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Phạm Thế Đ và Nguyễn Viết S mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, các đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Bản án 77/2019/HSST ngày 10/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 77/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 10/04/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về