Bản án 77/2019/HNGĐ-ST ngày 19/11/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VINH – TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 77/2019/HNGĐ-ST NGÀY 19/11/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Trong ngày 19/11/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vinh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 354/2019/TLST-HNGĐ ngày 16/07/2019 về tranh chấp Hôn nhân và gia đình. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 98/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 04/010/2019 và theo Quyết định hoãn phiên tòa số 39/2019/QĐST-HNGĐ ngày 25/10/2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: chị Nguyễn Thị Phương L, sinh năm 1990

Địa chỉ: khối 9, phường C, thành phố V, Nghệ An Xin xử vắng mặt

Bị đơn: anh Nguyễn Anh D, sinh năm 1982

Địa chỉ: khối 9, phường C, thành phố V, Nghệ An Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Căn cứ vào đơn xin ly hôn và những lời trình bày trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Phương L trình bày:

Về tình cảm: Chị Phương L và anh Nguyễn Anh D kết hôn trên cơ sở tình yêu tự nguyện, có đăng ký kêt hôn ngày 22/10/2012 tại UBND phường Cửa Nam, thành phố Vinh, Nghệ An.Vợ chồng sống chung thường xuyên xẩy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do hai người không phù hợp tính tình, quan điểm sống, không có niềm tin và sự tôn trọng lẫn nhau, hiện tại đã sống ly thân. Nay chị Nguyễn Thị Phương L xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã rất trầm trọng nên chị làm đơn xin ly hôn với anh D đề nghị Tòa án giải quyết.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là cháu Nguyễn Gia H, sinh ngày 25/08/2011 và cháu Nguyễn Minh Kh, sinh ngày 25/12/2012 hiện đang sống với anh D, khi ly hôn thì tùy nguyện vọng của anh D để giải quyết về con chung. Nếu anh D trực tiếp nuôi các con chung thì chị L đồng ý, nếu anh D không đồng ý trực tiếp nuôi dưỡng các con chung thì chị L sẽ trực tiếp nuôi dưỡng và không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị Phương L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về phía bị đơn, anh Nguyễn Anh D, trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa vắng mặt nhưng quá trình tố tụng đã có bản tự khai gửi cho Tòa án, anh D thừa nhận về thời gian, điều kiện kết hôn như chị L trình bày là đúng. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được thời gian cho đến năm 2018 chị L bỏ nhà đi, theo anh D quan hệ vợ chồng không có mâu thuẫn gì, nếu chị L nhất quyết ly hôn thì anh D đồng ý.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là cháu Nguyễn Gia H, sinh ngày 25/08/2011 và cháu Nguyễn Minh Kh, sinh ngày 25/12/2012 hiện đang sống với anh D, khi ly hôn thì anh D yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung và không yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: anh D không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án như sau: Toà án thụ lý vụ án đúng thẩm quyền, Thẩm phán, Hội đồng xét xử thực hiện các bước tố tụng đúng theo quy định của pháp luật, các đương sự thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình, yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của nguyên đơn là có căn cứ, yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng các con chung của bị đơn là có căn cứ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của đương sự, kiểm sát viên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Về phía nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Phương L có đơn xin xét xử vắng mặt, về phía bị đơn là anh Nguyễn Anh D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ phiên tòa lần hai, nhưng anh Nguyễn Anh D vắng mặt không có lý do, không vì trở ngại khách quan nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị Nguyễn Thị Phương L và anh Nguyễn Anh D theo quy định của pháp luật.

[2] Về quan hệ tình cảm: Cuộc hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Phương L và anh Nguyễn Anh D được xây dựng trên cơ sở tình yêu tự nguyện, có đăng ký kết hôn, như vậy là hợp pháp cần được bảo vệ. Tuy vậy, vợ chồng chung sống với nhau thường xẩy ra mâu thuẫn, nguyên nhân chủ yếu do mâu thuẫn vợ chồng, tính tình không hợp, hiện tại đã sống ly thân, không quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Hội đồng xét xử xét thấy cuộc hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Phương L và anh Nguyễn Anh D trên thực tế không còn tồn tại, mục đích của Hôn nhân không đạt được, vợ chồng sống đã sống ly thân, không quan tâm chăm sóc lẫn nhau, mục đích hôn nhân không đạt được. Xét thấy yêu cầu xin ly hôn của chị L là phù hợp pháp luật. Áp dụng điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị Nguyễn Thị Phương L được ly hôn với anh Nguyễn Anh D là phù hợp với các qui định của pháp luật.

[3 Về quan hệ con chung: Vợ chồng có 02 con chung là cháu Nguyễn Gia H, sinh ngày 25/08/2011 và cháu Nguyễn Minh Kh, sinh ngày 25/12/2012 hiện đang sống với anh D. Ly hôn anh D có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng các con chung, chị L cũng đồng ý. Xét yêu cầu của các đương sự là chính đáng và phù hợp với các quy định của pháp luật nên HĐXX cần chấp nhận. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Do anh D không yêu cầu nên HĐXX không xem xét.

[4] Về quan hệ tài sản chung: Hai bên không yêu cầu nên HĐXX không xem xét.

[5] Về án phí: chị Nguyễn Thị Phương L phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các điều 56, 59, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 điều 28; điều 35, điều 227, điều 228, điều 271, điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự:

[1] Về quan hệ tình cảm: Xử cho chị Nguyễn Thị Phương L được ly hôn với anh Nguyễn Anh D.

[2] Về quan hệ con chung: Giao các con chung là cháu Nguyễn Gia H, sinh ngày 25/08/2011 và cháu Nguyễn Minh Kh, sinh ngày 25/12/2012 hiện đang sống với anh D cho anh Nguyễn Anh D trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ tuổi trưởng thành. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung cho chị L do anh D không yêu cầu. Chị Phương L có quyền đi lại thăm nom chăm sóc con chung không ai được ngăn cấm.

[3] Về quan hệ tài sản: Hai bên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[4] Về án phí: áp dụng điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, buộc chị Nguyễn Thị Phương L phải chịu 300.000 đồng án phí LHST, (được khấu trừ tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Vinh theo BL số 0007233 ngày 15/07/2019).

[5] Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án chị Nguyễn Thị Phương L có quyền kháng báo bản án lên TAND tỉnh Nghệ An, anh Nguyễn Anh D có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

262
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 77/2019/HNGĐ-ST ngày 19/11/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình

Số hiệu:77/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vinh - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về