Bản án 77/2019/DS-PT ngày 15/03/2019 về tranh chấp đòi lại quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 77/2019/DS-PT NGÀY 15/03/2019 VỀ TRANH CHẤP ĐÒI LẠI QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ YÊU CẦU HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 15 tháng 03 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 349/2018/TLPT-DS ngày 08 tháng 10 năm 2018 về “Tranh chấp đòi lại quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số: 34/2018/DS-ST ngày 17/07/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 130/2019/QĐ-PT ngày 20 tháng 02 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Lâm Ngọc L, sinh năm 1963; Địa chỉ: ấp Tr, xã Th, huyện M, tỉnh Sóc Trăng (Có mặt).

Người bảo vệ quyền, L ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư Lư Thị Ng – Luật sư của Văn phòng Luật sư Lư Thị Ng, Đoàn Luật sư tỉnh Sóc Trăng; Địa chỉ: đường L, thị trấn M1, huyện M1, tỉnh Sóc Trăng (Có mặt).

2. Bị đơn:

2.1 Ông L, sinh năm 1954; Địa chỉ: ấp K, xã A, huyện Ch, tỉnh Sóc Trăng (Có mặt).

2.2 Bà Ông Tú H, sinh năm 1967; Địa chỉ: ấp Ch, xã A, huyện Ch, tỉnh Sóc Trăng (Có mặt).

3. Người có quyền L, nghĩa vụ liên quan:

3.1 Ủy ban nhân dân huyện Ch; Địa chỉ: đường H1, thị trấn Ch, huyện Ch (Sóc Trăng).

Người đại diện hợp pháp của Ủy ban nhân dân huyện Ch: Bà Lâm Khánh Ph - Phó Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Ch, theo văn bản ủy quyền số 10/UQ-UBND ngày 23/8/2017 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Ch; Địa chỉ: đường H, thị trấn Ch, huyện Ch, tỉnh Sóc Trăng (Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).

3.2 Ông Lâm Văn G, sinh năm 1982 (Vắng mặt).

3.3 Bà Lý Thị S, sinh năm 1982 (Có mặt).

Người đại diện hợp pháp của ông Lâm Văn G: Bà Lý Thị S, sinh năm 1982, theo văn bản ủy quyền ngày 12-10-2017; Cùng địa chỉ: ấp K, xã A, huyện Ch, tỉnh Sóc Trăng.

3.4 Ông Danh L, sinh năm 1975; Địa chỉ: ấp K, xã A, huyện Ch, tỉnh Sóc Trăng (Vắng mặt).

3.5 Bà Thị Tr; Địa chỉ: ấp K, xã A, huyện Ch, tỉnh Sóc Trăng (Vắng mặt).

3.6 Ông Nguyễn Văn T; Địa chỉ: ấp K, xã A, huyện Ch, tỉnh Sóc Trăng (Vắng mặt).

3.7 Bà Đoàn Thị L1, sinh năm 1962 (Vắng mặt).

3.8 Bà Lâm Thị Ngọc G, sinh năm 1986 (Vắng mặt).

Người đại diện hợp pháp của bà L1, bà G: Ông Lâm Ngọc L, sinh năm 1963, theo văn bản ủy quyền ngày 9/10/2017; Cùng địa chỉ: ấp Tr, xã Th, huyện M, tỉnh Sóc Trăng.

3.9 Bà Sơn Thị Kim L2, sinh năm 1973; Địa chỉ: ấp K, xã A, huyện Ch, tỉnh Sóc Trăng (Vắng mặt).

3.10 Ông Lâm H; Địa chỉ: ấp K, xã A, huyện Ch, tỉnh Sóc Trăng (Vắng mặt).

4. Người kháng cáo: Ông Lâm Ngọc L và bà Đoàn Thị L1.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn ông Lâm Ngọc L có đơn khởi kiện đề ngày 4/4/2017 trình bày: Ông có 02 thửa đất ruộng là thửa 1003, diện tích 3.011m2 và thửa 1004, diện tích 3.200m2, tờ bản đồ số 4, tọa lạc tại ấp K, xã A, huyện Ch, tỉnh Sóc Trăng, ông đã được Ủy ban nhân dân huyện M cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số A700920 ngày 22/10/1991. Hai thửa 1003 và 1004 có một cạnh tiếp giáp với K1, trong 02 thửa đất này vào năm 1995 ông có chuyển nhượng cho ông L 02 công tầm cấy (2.592m2). Việc chuyển nhượng có làm giấy tay, ông L đang giữ. Lúc chuyển nhượng ông có cùng ông L ra ruộng đo đạc và ông giao đủ cho ông L diện tích 2.592m2. Sau khi đo thì ông còn lại diện tích 278m2 trong 02 thửa 1003, 1004 nằm tiếp giáp K1. Ông có nói với ông L là ông cho ông L mượn diện tích đất dư này để canh tác, khi nào ông L làm giấy thì phải trả lại cho ông diện tích 278m2 đất dư, phần đất này có vị trí, tứ cận: Hướng đông có số đo 98,6m giáp kênh N; Hướng Tây có số đo 98,6m giáp đất bà Ông Tú H; Hướng Bắc có số đo 2,82m giáp đất của ông L; Hướng Nam có số đo 2,82m giáp đất ông Lâm Ngọc L.

Đến năm 2013, ông L cho em ruột là bà Ông Tú H đăng ký xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên diện tích đất chuyển nhượng 2.592m2, ông L còn cho bà Ông Tú H đăng ký luôn phần diện tích 278m2 đất còn thừa của ông Lâm Ngọc L giáp kênh N. Từ đó, diện tích đất bà H được cấp là 2.870m2, trong khi ông chỉ chuyển nhượng cho ông L diện tích 2.592m2. Ủy ban nhân dân huyện Ch đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Ông Tú H số BM 739129 ngày 20/02/2013 tại thửa 1525, tờ bản đồ số 4, loại đất chuyên trồng lúa nước, diện tích 2.870m2, tọa lạc tại ấp K, xã A, huyện Ch.

Ngoài ra, tại ranh đất của thửa 1004, ông L còn chiếm đất của ông với diện tích 355,61m2, ông L chia ra làm 04 nền nhà bán cho 04 hộ để xây dựng nhà gồm:

1. Ông Lâm Văn G chiều ngang 5m, chiều dài 14,73m= 71,5m2 

2. Ông Danh L chiều ngang 5,54m, chiều dài 14,70m = 80,11m2

3. Bà Thị Tr chiều ngang 7m, chiều dài 17m = 119m2 (mua thêm)

4. Ông Nguyễn Văn T chiều ngang 5m, dài 17m = 85m2 

Như vậy, tổng diện tích đất do ông L và bà Ông Tú H chiếm của ông là 278m2 + 355,61m2 = 633,61m2. Từ ngày chuyển nhượng đất cho ông L thì ông đi làm ăn xa, đến tháng 02/2016 ông mới trở về và phát hiện việc ông L, bà Ông Tú H chiếm đất của ông.

Nay ông khởi kiện yêu cầu: 1/ Buộc ông L trả lại cho ông diện tích đất ruộng 355,61m2 thuc thửa 1004, tờ bản đồ số 4, tọa lạc tại ấp K, xã A, huyện Ch, tỉnh Sóc Trăng.

2/ Buộc bà Ông Tú H trả lại cho ông diện tích 278m2 đất ruộng mà bà H đăng ký dư trên phần đất của ông tại thửa 1003-1004 (nay là thửa 1525), tờ bản đồ số 4, tọa lạc tại ấp K, xã A, huyện Ch, tỉnh Sóc Trăng.

3/ Hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BM 739129 do UBND huyện Ch cấp cho bà Ông Tú H ngày 20/02/2013 vì bà Ông Tú H đã đăng ký dư diện tích 278m2 đất chuyên trồng lúa nước như đã trình bày ở phần trên.

Bị đơn ông L trình bày:

Năm 1993 ông mua của nguyên đơn ông Ngọc L 1,5 công (1.950m2) cặp mé kênh tổng cộng là 03 chỉ vàng, chỉ thỏa thuận miệng, không có lập văn bản cũng không có ai biết, ông Ngọc L ra đo đất này cho ông. Khoảng 02 năm sau thì ông mua lại của bà Nguyễn Thị Long N 01 công đất (do ông Ngọc L bán cho bà N trước đó) giá 02 chỉ vàng 24k. Ông nhận đất canh tác được 01 vụ thì ông Lâm Ngọc L kêu máy cày phá bờ bỏ, ông mới qua nói với ông Lâm Ngọc L đổi lại cho ông01 công khác cho ông để liền với đất 1,5 công ông nhận chuyển nhượng đó, đổi liền canh thì có nhận ít hơn chút ông cũng chịu, lúc này bà Đoàn Thị L1 là vợ ông Lâm Ngọc L ra đo cho ông 01 công giáp với 1,5 công cặp mé kênh của ông (thành 2,5 công như hiện nay em gái ông là bà Ông Tú H được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất). Việc đổi đất này cũng không có lập văn bản hay không có ai biết ngoài ông, vợ chồng ông Lâm Ngọc L. Sau đó ông có đào 01 con mương trong đất của ông vừa làm ranh đất. Đến năm 1998, nạo vét kênh thì bờ kênh rộng ra thì bà Trang Thị L3 (mẹ ông Lâm Ngọc L) đến nói với ông là bà chỉ cho ông Lâm Ngọc L đất ruộng, không cho đất bờ kênh nên đòi lấy đất bờ kênh cho người ta cất nhà ờ, đất bờ kênh đó thì Nhà nước quản lý mà bà L3 yêu cầu như vậy nên ôngphải mua, nếu không thì ông sẽ không có đường mặt bờ kênh, nên ôngtrả thêm 02 chỉ vàng 24k cho bà L3. Việc ông trả vàng cho bà L3 này có làm giấy tay đã thất lạc, nhưng có ông Đào Bỉnh D (cùng ấp) biết.

Khi ông mua đất này của ông Lâm Ngọc L thì Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Lâm Ngọc L thế chấp Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện M nên không tách giấy chứng nhận ra được.

Năm 2012, địa phương (có ông Lê Hoàng Th – là Trưởng ban nhân dân ấp lúc đó) kêu ông bán một phần đất này để những hộ dân nghèo ở cặp mé sông dọn lên ở thì ôngmới đứng ra bán 04 nền cho những hộ dân ở (trên phần đất 2,5 công ông mua của ông Lâm Ngọc L trước đó), mỗi nền là 8.000.000 đồng. Nhưng do ông vẫn chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên ông có qua nói với ông Lâm Ngọc L thì ông Lâm Ngọc L kêu ông bán đi nhưng chừa đường máy cày lên cho ông, ít ngày sau thì vợ ông Lâm Ngọc L và con gái Lâm Ngọc L (tên Lâm Thị Ngọc G) đến nói nhờ ông bán giùm hai nền nhà, ông nói đất của họ xéo không đủ nên ông sẽ cho thêm đất để bán đủ được 02 nền nhà cho ông Lâm Văn G và Danh L. Việc thỏa thuận này cũng không có văn bản cũng không có ai biết hết. Ông thừa nhận 04 Biên bản v/v thỏa thuận mua bán đất theo quyết định số 74 là ông ký tên ông cũng không có xem nên không biết ghi tên “Lâm Văn L”. Sau khi lấy tiền chuyển nhượng 02 nền này thì em gái ông là bà Ông Tú H chở bà Đoàn Thị L1 đi lấy giấy chứng nhận ở Ngân hàng ra và bà Ông Tú H đi làm thủ tục tách quyền sử dụng đất ra thửa 1525 đứng tên bà Ông Tú H.

Với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì ông không đồng ý, do ông mua của ông Lâm Ngọc L, còn các nền đất ông bán thì là trên 2,5 công này của ông, tuy có một ít qua đất của ông Lâm Ngọc L nhưng do ông Lâm Ngọc L cũng đồng ý bán và đứng ra đo đạc, các bên đã nhận tiền rồi giờ ông Lâm Ngọc L yêu cầu như vậy là ông không đồng ý.

Đi với 04 nền nhà trên đất, trong đó có nền nhà của ông Lâm Văn G và ông Danh L có một phần đất mà ông Lâm Ngọc L đã chuyển nhượng cho ông, nhưng anh em ông thống nhất cho lại ông Lâm Ngọc L để trả tiền Ngân hàng nên anh em không yêu cầu phần diện tích đất này nữa.

Bị đơn bà Ông Tú H trình bày:

Ngun gốc thửa 1525 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BM 739219 do UBND huyện Ch cấp cho bà ngày 20/02/2013 là do anh bà là Ông L mua bán với ông Lâm Ngọc L thì bà thống nhất như Ông L trình bày. Năm 2012, khi ông Lâm Ngọc L bán được nền nhà có tiền thì vài ngày sau bàchở bà Đoàn Thị L1 (vợ ông Lâm Ngọc L) đi lại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện M để lấy lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Lâm Ngọc L ra, bà L1 cầm 16 triệu tiền bán nền nhà do bà giữ hộ đi trả nợ, bà có cho mượn thêm 02 triệu tiền riêng của bà nữa là tổng cộng 18 triệu đồng đủ trả nợ cho Ngân hàng. Lấy giấy chứng nhận ra thì bà L1 đưa giấy chứng nhận cho bàđi làm thủ tục tách quyền sử dụng đất ra. Bà liên hệ Địa chính xã là ông Lưu Minh H làm. Sau khi có hồ sơ cấp giấy thì bà đem đưa cho gia đình ông Lâm Ngọc L (lúc đó có bà Đoàn Thị L1 và con gái là Lâm Thị Ngọc G) nhận hồ sơ, theo bà biết thì bà L1 kêu con gái tên G ký tên trong các thủ tục cấp giấy này thay cho ông Lâm Ngọc L, do lúc đó không thấy ông Lâm Ngọc L ở nhà.Hiện bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 1525 này bà đang giữ.

Với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn yêu cầu hủy phần đất diện tích 278m2 ấp K, xã A, huyện Ch, tỉnh Sóc Trăng trong thửa 1525 thuộc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BM 739129 do UBND huyện Ch cấp cho bà thì bà không đồng ý, do đất này của Ông L mua của ông Lâm Ngọc L.

Đi với 04 nền nhà trên đất, trong đó có nền nhà của ông Lâm Văn G và ông Danh L có một phần đất mà ông Lâm Ngọc L đã chuyển nhượng cho ông L, nhưng anh em bà thống nhất cho lại ông Lâm Ngọc L để trả tiền Ngân hàng nên anh em bà không yêu cầu phần diện tích đất này nữa.

Tại Công văn số 423/UBND-VP ngày 03/7/2017 của Ủy ban nhân dân huyện Chtrình bày:

Việc Ủy ban nhân dân huyện Ch cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BM 739129 cho bà Ông Tú H ngày 20/02/2013 đối với thửa đất số 1525 (hợp từ thửa 1003, 1004), tờ bản đồ số 4, diện tích 2.870m2 đất tọa lạc ấp K, xã A, huyện Ch, tỉnh Sóc Trăng, căn cứ vào Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 136/2012 và Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 137/2012 giữa hai bên chuyển nhượng là bà Ông Tú H được Ủy ban nhân dân xã A chứng thực cùng ngày 06/12/2012. Việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đúng trình tự, thủ tục tại thời điểm đăng ký nên việc ông Lâm Ngọc L yêu cầu hủy một phần giấy chứng nhận trên là không có cơ sở.

Người có quyền L, nghĩa vụ liên quan bà Đoàn Thị L1 trình bày:

Bà là vợ ông Lâm Ngọc L, thời điểm năm 1995 – 1996 vợ chồng bà có đứng ra bán cho Ông L 01 công đất, sau đó vợ chồng bà có bán cho bà N 01 công đất nữa, sau này bà N đã bán 01 công đất này cho Ông L luôn, như vậy là vợ chồng bà và bà N đã bán cho Ông L 02 công đất.

Khong năm 2012 – 2013 lúc này chồng bà đi làm ăn xa không có ở nhà, thì bà Ông Tú H lại gặp bà nói mượn Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để tách 02 công đất đó ra cho Ông L, bà nói giấy chứng nhận đất đã thế chấp ở Ngân hàng thì bà H nói sẽ chở bà đến Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện M để trả nợ và lấy giấy ra, bà cũng đồng ý. Sau đó bà H chở bà đến Ngân hàng trả nợ, tổng cộng vốn và lãi là 18 triệu đồng, số tiền đó là bà H nói cho bà trả nợ Ngân hàng để lấy Giấy chứng nhận đất ra. Trả nợ cho Ngân hàng xong lấy giấy chứng nhận đất ra thì bà H lấy luôn và đi làm thủ tục, bàcó nói bà không biết chữ và nói lúc chồng bà đo đất tạm cho Ông L bao nhiêu thì làm giấy cho Ông L bấy nhiêu, còn dư thì trả đất lại cho bà. Sau đó bà H lấy giấy chứng nhận đi làm thủ tục một thời gian sau thì bà H đem các thủ tục sang đất lại nhà bàcho bà ký tên, do bà không biết chữ nên đưa cho con gái bà tên Lâm Thị Ngọc G ký. Do bàkhông biết chữ nên cũng không có xem lại các thủ tục này là gì, nghe bà H nói là thủ tục sang tên 02 công đất bán cho Ông L, một thời gian sau nữa thì bà H trả lại giấy chứng nhận phần đất còn lại cho bà, bà nhận giấy chứng nhận lại và cũng không có xem lại mà bỏ vô tủ cất. Bà ký thủ tục và nhận giấy chứng nhận đất thì cũng không có cho chồng bà biết, sau này chồng bà về thì bàmới nói lại.

Năm 2012 thì bà không có đến nhà Ông L nhờ Ông L bán giùm 02 nền nhà cho hộ nghèo như Ông L trình bày. Lúc các ông bà Lâm Văn G, bà Thị Tr, Danh L, Nguyễn Văn T cất nhà trên phần đất ruộng 355,61m2 ở ấp K, xã A, huyện Ch bà lo buôn bán ở chợ nên cũng không biết sự việc này. Bà cũng không biết việc đổi đất gì với Ông L năm 1993 – 1995.Nay bà cũng thống nhất như yêu cầu của chồng bà làông Lâm Ngọc L.

Người có quyền L, nghĩa vụ liên quan bà Lâm Thị Ngọc G trình bày:

Bà là con gái của ông Lâm Ngọc L, bà Đoàn Thị L1. Bà không biết việc chuyển nhượng đất giữa cha mẹ bà với Ông L, bà Ông Tú H. Bà cũng không biết việc bà H chở mẹ bà đi trả nợ Ngân hàng lấy giấy chứng nhận đất ra như thế nào, bà chỉ biết sự việc là khoảng năm 2012-2013 bà H có mang các giấy tờ thủ tục sang tên đất đến nhà bàđưa cho mẹ bàký, nhưng do mẹ bàkhông biết chữ nên kêu bàký, bà nghĩ là người lớn đã thỏa thuận với nhau hết rồi nên bàcũng không có xem lại văn bản gì mà ký tên vô thôi. Lúc đó cha bàkhông có ở nhà, chỉ có mẹ bàvà bà ở nhà. Còn việc bà H giao lại giấy chứng nhận phần đất dư cho mẹ bàthì bàcũng không biết, cũng như việc bán nền nhà ông bà Lâm Văn G, bà Thị Tr, Danh L, Nguyễn Văn T là bà không có tham gia, không biết. Đối với các Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có người chuyển nhượng Lâm Ngọc L, bên nhận chuyển nhượng Ông Tú H ngày 6/12/2012 đối với thửa 1003, 1004 (bút lục số 86-89) thì bà xác định do bà Ông Tú H mang đến nhà, mẹ bà kêu bà ký thì bà tin tưởng nên có ký tên vô giùm cha bà, ký nhưng mà cũng không biết nội dung gì. Nay bà thống nhất như yêu cầu của cha bà là ông Lâm Ngọc L.

Người có quyền L, nghĩa vụ liên quan bà Lý Thị S trình bày:

Bà đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của chồng bà là ông Lâm Văn G. Hiện vợ chồng bà có căn nhà ngang 5m x dài 14m trên phần đất tranh chấp giữa ông Lâm Ngọc L và ông L. Nguồn gốc phần đất này là năm 2012 bà nhận chuyển nhượng của ông Lâm Ngọc L theo chương trình 167 của địa phương, thời điểm đó do địa phương đứng ra thỏa thuận giá cả cho luôn. Do đất của bà một phần nằm trên đất của Ông L, một phần nằm trên đất của ông Lâm Ngọc L, nên lúc đo đất thì có ông Lâm Ngọc L, ông Lâm Văn T1 (em trai ông Ngọc L) đứng ra đo đất giao cho vợ chồng bà, nhưng đo và giao đất không đủ theo hợp đồng mua bán. Việc chuyển nhượng đất này có lập hợp đồng do bà đi ra Ủy ban nhân dân xã ký tên giấy tờ làm thủ tục, giao tiền cho Ông L 10 triệu đồng, thủ tục này là do Ủy ban nhân dân xã giữ hết. Sau khi nhận chuyển nhượng đất thì trong năm 2012 vợ chồng bà cất nhà trên đó ở luôn. Với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì vợ chồng bà không đồng ý, do đất này vợ chồng bà mua có giấy tờ hợp pháp rồi.

Đến ngày 15/6/2018 người có quyền L, nghĩa vụ liên quan bà Lý Thị S, ông Lâm Văn G có đơn yêu cầu độc lập gửi đến Tòa án yêu cầu ông Lâm Ngọc L phải giao thêm cho gia đình ông bà đủ diện tích đất theo hợp đồng chuyển nhượng ban đầu.

Người có quyền L, nghĩa vụ liên quan bà Sơn Thị Kim L2 trình bày:

Bà và chồng là ông Danh L có một căn nhà số 29 trên phần đất tranh chấp giữa ông Lâm Ngọc L và ông L. Nguồn gốc của phần nền nhà này là bà mua của ông Lâm Ngọc L giá 10 triệu đồng, mua bà cất nhà luôn, mua đất đưa tiền cho Ông L, bà cũng không biết việc thỏa thuận giữa ông Lâm Ngọc L và Ông L như thế nào, nhưng lúc bà mua đất thì có ông Lâm Ngọc L, em của ông Lâm Ngọc L là ông T1 đứng ra đo đất giao cho bà, mua bán có làm giấy tờ nhưng Ủy ban nhân dân xã giữ hết các giấy tờ. Với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì bà không đồng ý, do bà đã nhận chuyển nhượng và cất nhà ở hợp pháp.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 34/2018/DS-ST ngày 17 tháng 7 năm 2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng đã quyết định như sau:

1/ Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lâm Ngọc L, về việc yêu cầu buộc ông L trả lại diện tích đất ruộng 355,61m2 thuc thửa 1004, tờ bản đồ số 4 (nay thuộc thửa đất số 1525, tờ bản đồ số 4), tọa lạc tại ấp K, xã A, huyện Ch, tỉnh Sóc Trăng. 2/ Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lâm Ngọc L, về việc yêu cầu buộcbà Ông Tú H trả lại diện tích 278m2 (qua đo đạc thực tế có số đo là 202,9m2) nay thuộc thửa đất số 1525, tờ bản đồ số 4, tọa lạc tại ấp K, xã A, huyện Ch, tỉnh Sóc Trăng.

3/ Không chấp chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lâm Ngọc L về việc yêu cầu hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BM 739129 do Ủy ban nhân dân huyện Ch cấp cho bà Ông Tú H ngày 20/02/2013 đối với diện tích 278m2 tha đất số 1525, tờ bản đồ số 4, tọa lạc tại ấp K, xã A, huyện Ch, tỉnh Sóc Trăng.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí, chi phí thẩm định, đo đạc, định giá, về nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 31 tháng 7 năm 2018, ông Lâm Ngọc L và bà Đoàn Thị L1 kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết:

- Buộc ông L trả lại cho ông Lâm Ngọc L diện tích đất ruộng 355,61m2 thuc thửa 1004, tờ bản đồ số 4, tọa lạc tại ấp K, xã A, huyện Ch, tỉnh Sóc Trăng.

- Buộc bà Ông Tú H trả lại cho ông Lâm Ngọc L diện tích 278m2 đất ruộng mà bà H đăng ký dư trên phần đất của ông Lâm Ngọc L tại thửa 1003-1004 (nay là thửa 1525), tờ bản đồ số 4, tọa lạc tại ấp K, xã A, huyện Ch, tỉnh Sóc Trăng.

- Hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BM 739129 do Ủy ban nhân dân huyện Ch cấp cho bà Ông Tú H ngày 20/02/2013.

Luật sư bảo vệ quyền, L ích hợp pháp cho nguyên đơn có quan điểm cho rằng: Lời khai của các nhân chứng là không đủ sự tin cậy về việc giao 04 nền đất cho 04 hộ dân. Thời điểm này ông Lâm Ngọc L không có mặt ở nhà. Về số tiền trả Ngân hang đề nghị xem xét lại; Đối với diện tích đất, phía bị đơn trình bày cũng không chính xác, chứng tỏ việc này là không có thật.

Đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến như sau:

Căn cứ các chứng cứ, tài liệu đã thu thập đã có đủ cơ sở xác định án sơ thẩm bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ và đúng pháp luật. Kháng cáo của phía nguyên đơn là không có cơ sở chấp nhận, đề nghị giữ nguyên án sơ thẩm.

Trên cơ sở xem xét tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và ý kiến tranh luận của các bên, ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Đối với các yêu cầu kháng cáo và khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc ông L trả lại cho ông diện tích đất ruộng 355,61m2 thuc thửa 1004 và buộc bà Ông Tú H trả lại cho ông diện tích 278m2 đất ruộng mà bà H đăng ký dư trên phần đất của ông tại thửa 1003-1004 (nay là thửa 1525), tờ bản đồ số 4, tọa lạc tại ấp K, xã A, huyện Ch, tỉnh Sóc Trăng; Đồng thời hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BM 739129 do UBND huyện Ch cấp cho bà Ông Tú H ngày 20/02/2013 vì bà Ông Tú H đã đăng ký dư diện tích 278m2 đất của nguyên đơn.

[1.1] Trước hết, đối với yêu cầu của ông Lâm Ngọc L phần 04 nền nhà chuyển nhượng cho hộ nghèo cho rằng ông L đã lấn chiếm, thấy rằng: Ở thời điểm này, Ủy ban nhân dân xã A có chủ chương mua đất cất nhà tình thương cho hộ nghèo, mỗi hộ ngang 5m x dài 20m, Ủy ban nhân dân xã có tìm ông L thỏa thuận chuyển nhượng đất thì được ông L đồng ý. Vì một phần diện tích đất của ông Lâm Ngọc L đã chuyển nhượng cho bà Ông Tú H, nhưng do giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn thế chấp ở Ngân hàng chưa làm thủ tục chuyển nhượng được, ông L mới thỏa thuận với ông Lâm Ngọc L nhận xéo của 02 hộ Lâm Văn G – Lý Thị S, Danh L – Sơn Thị Kim L2 đã chuyển nhượng cho ông L phía ngoài là đất của ông Lâm Ngọc L nên ông L đồng ý cho ông Lâm Ngọc L một phần để ông Lâm Ngọc L bán trả tiền vay Ngân hàng. Theo lời khai của ông L và 02 hộ Lý Thị S, Sơn Thị Kim L2 khi giao đất để cất nhà thì có ông Lâm Ngọc L đo giao đất, việc giao dịch bán 04 nền nhà cho hộ nghèo ông Lâm Ngọc L đều biết. Và cũng tại lời khai bà Đoàn Thị L1 là vợ ông Lâm Ngọc L thì bà cùng bà Ông Tú H đem tiền đến Ngân hàng trả nợ và lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ra để làm thủ tục chuyển nhượng (tiền đó là do bà Ông Tú H là em của ông L trả). Và các hộ này cất nhà ở trên đất này thời gian dài ông Lâm Ngọc L cũng không có tranh chấp gì. Nay ông Lâm Ngọc L khởi kiện yêu cầu buộc ông L trả lại cho ông diện tích đất ruộng 355,61m2 thuc thửa 1004 do lấn chiếm bán cho hộ nghèo.

[1.2] Đối với phần đất bờ kênh ông Lâm Ngọc L cho rằng bà H đăng ký dư trên phần đất của ông diện tích 278m2 đất ruộng tại thửa 1003-1004 (nay là thửa 1525). Thấy rằng: phần bờ kênh thủy L này bà Trang Thị L3 là mẹ ông Lâm Ngọc L đã chuyển nhượng cho ông L, bà L3 thừa nhận sự việc này (tại Biên bản lấy lời khai ngày 21/6/2018). Phần đất ông Lâm Ngọc L cho rằng chuyển nhượng cho bà Ông Tú H từ ngoài vào giáp với Kênh thủy lợi ông cho rằng còn dư một phần ông chừa lại, nhưng ông không có giấy tờ gì chứng minh, vị trí chừa lại ở đâu... Thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất tuy ông không ký nhưng ông cũng thừa nhận là có chuyển nhượng đất cho ông L và vợ con ông cũng đã thừa nhận là đã ký vào thủ tục chuyển nhượng phần đất trên cho bà Ông Tú H và đã nhận đủ tiền chuyển nhượng. Nay ông yêu cầu buộc bà H trả lại cho ôngdiện tích 278m2 đất ruộng tại thửa 1003-1004 và hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BM 739129 do UBND huyện Ch cấp cho bà Ông Tú H ngày 20/02/2013 vì bà Ông Tú H đã đăng ký dư diện tích 278m2 đất của ông. Và tại phiên tòa sơ thẩm, người bảo vệ quyền, L ích hợp pháp của nguyên đơn cho rằng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Lâm Ngọc L với bà Ông Tú H thì ông Lâm Ngọc L không có ký tên là vô hiệu. Nhận thấy, theo Án lệ số 04/2016/AL về vụ án “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” được lựa chọn từ Quyết định giám đốc thẩm số 04/2010/QĐ-HĐTP ngày 03-3-2010 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và được công bố theo Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao thì: “Trường hợp nhà đất là tài sản chung của vợ chồng mà chỉ có một người đứng tên ký hợp đồng chuyển nhượng nhà đất đó cho người khác, người còn lại không ký tên trong hợp đồng; nếu có đủ căn cứ xác định bên chuyển nhượng đã nhận đủ số tiền theo thỏa thuận, người không ký tên trong hợp đồng biết và cùng sử dụng tiền chuyển nhượng nhà đất; bên nhận chuyển nhượng nhà đất đã nhận và quản lý, sử dụng nhà đất đó công khai; người không ký tên trong hợp đồng biết mà không có ý kiến phản đối gì thì phải xác định là người đó đồng ý với việc chuyển nhượng nhà đất”. Và tại Công văn số 423/UBND-VP ngày 03/7/2017 của Ủy ban nhân dân huyện Ch cho rằng căn cứ vào Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 136/2012 và Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 137/2012 giữa hai bên chuyển nhượng là bà Ông Tú H được Ủy ban nhân dân xã A chứng thực cùng ngày 06/12/2012. Việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đúng trình tự, thủ tục tại thời điểm đăng ký nên việc ông Lâm Ngọc L yêu cầu hủy một phần giấy chứng nhận trên là không có cơ sở. Từ những phân tích trên, thấy rằng việc bà L1 đồng ý kêu con là Lâm Thị Ngọc G ký tên vào hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với bà Ông Tú H, Ông L. Và bà Ông Tú H đã sử dụng đất nhận chuyển nhượng công khai từ năm 1995 đến nay, ông Lâm Ngọc L đều biết và cũng không có ý kiến phản đối gì, nên xác định ông Lâm Ngọc L đồng ý với việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất đó.

[2] Qua những phân tích như đã nêu trên đã cho thấy, việc tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở và phù hợp với quy định của pháp luật. Yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn là không có căn cứ để chấp nhận, cần bác kháng cáo và giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

[3] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

[4] Do yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn không được chấp nhận nên nguyên đơn phải chịu án phí phúc thẩm theo luật định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Lâm Ngọc L và bà Đoàn Thị L1. Giữ nguyên quyết định của bản án số 34/2018/DS-ST ngày 17/7/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng.

Tuyên xử:

1/ Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lâm Ngọc L, về việc yêu cầu buộc ông L trả lại diện tích đất ruộng 355,61m2thuc thửa 1004, tờ bản đồ số 4 (nay thuộc thửa đất số 1525, tờ bản đồ số 4), tọa lạc tại ấp K, xã A, huyện Ch, tỉnh Sóc Trăng.

2/ Không chấp nhận nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lâm Ngọc L, về việc yêu cầu buộc bà Ông Tú H trả lại diện tích 278m2 (qua đo đạc thực tế có số đo là 202,9m2) nay thuộc thửa đất số 1525, tờ bản đồ số 4, tọa lạc tại ấp K, xã A, huyện Ch, tỉnh Sóc Trăng. 3/ Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lâm Ngọc L về việc yêu cầu hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BM 739129 do Ủy ban nhân dân huyện Ch cấp cho bà Ông Tú H ngày 20/02/2013 đối với diện tích 278m2 tha đất số 1525, tờ bản đồ số 4, tọa lạc tại ấp K, xã A, huyện Ch, tỉnh Sóc Trăng.

(có Sơ đồ hiện trạng thửa đất ngày 01/9/2017 kèm theo).

4/ Về án phí:

+ Ông Lâm Ngọc L phải chịu 1.267.200 đồng án phí sơ thẩm, được khấu trừ số tiền tạm ứng đã nộp là 633.000đ theo biên lai thu tiền số 0006638 ngày 12/4/2017 do Cục Thi hành án dân sự tỉnh Sóc Trăng phát hành, như vậy ông Lâm Ngọc L còn phải nộp tiếp số tiền án phí dân sự sơ thẩm là 634.200 đồng.

+ Ông Lâm Ngọc L và bà Đoàn Thị L1 mỗi người phải chịu 300.000đ tiền án phí dân sự phúc thẩm, được khấu trừ lần lược theo biên lai thu số 0004421 và 0004422 ngày 06/8/2018 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Sóc Trăng.

5/ Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản số tiền là 6.670.000 đồng: Ông Lâm Ngọc L phải chịu, do ông Lâm Ngọc L đã nộp tạm ứng trước số tiền trên, nên ông Lâm Ngọc L đã thực hiện xong nghĩa vụ chịu chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

346
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 77/2019/DS-PT ngày 15/03/2019 về tranh chấp đòi lại quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

Số hiệu:77/2019/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 15/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về