Bản án 77/2018/HS-ST ngày 25/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HẢI CHÂU, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 77/2018/HS-ST NGÀY 25/10/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 67/2018/TLST-HS ngày 26 tháng 9 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 65/2018/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo:

Đặng Phước H (tên gọi khác: Không); sinh năm 19xx tại thành phố Đà Nẵng; nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Đường P, phường B, quận C, thành phố Đà Nẵng; nghề nghiệp: Lao động phổ thông; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Văn A và bà Nguyễn Thị M; bị cáo chưa có vợ con; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 18/5/2017 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường Hòa Cường Bắc ra quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; bị cáo bị bắt tạm giam ngày 17 tháng 7 năm 2018. (có mặt)

- Người tham gia tố tụng khác:

+ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Trần Cao N – sinh năm 1981 – Địa chỉ: Đường L, quận C, thành phố Đà Nẵng. (vắng mặt)

+ Người chứng kiến: Ông Trần Văn B – Sinh năm 1964 – Địa chỉ: Phường D, quận C, thành phố Đà Nẵng. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 05 giờ 30 phút ngày 20/6/2018, Công an phường D, quận C, thành phố Đà Nẵng thấy Đặng Phước H có biểu hiện nghi vấn nên đã tiến hành kiểm tra hành chính, phát hiện trong túi quần phía trước bên phải của H có 01 gói nilong bên trong chứa 01 viên nén màu hồng nên lập biên bản sự việc đồng thời thu giữ của H 01 gói nilong kích thước 02 x 1,5 cm. Ký hiệu A.

Theo kết luận giám định số 120/GĐ-MT ngày 29/6/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng kết luận: Viên nén màu hồng trong mẫu niêm phong A gửi giám định ma túy là loại MDMA, khối lượng viên mẫu A: 0,186 gam (mẫu ký hiệu A đã sử dụng hết trong quá trình giám định).

Quá trình điều tra, Đặng Phước H khai nhận: Vào lúc 01 giờ ngày 20/6/2018, H đến nhà Trần Cao N tại đường L, quận C, thành phố Đà Nẵng để sử dụng ma túy. Sau khi sử dụng xong, H thấy trong phòng của N có 01 viên ma túy (thuốc lắc) nên H lấy bỏ vào túi quần với mục đích mang về sử dụng. Sau đó H bị Công an phường D, quận C, thành phố Đà Nẵng mời lên làm việc và phát hiện, thu giữ viên ma túy thuốc lắc như đã nêu trên.

Tại bản Cáo trạng số 61/CT-VKSHC ngày 26 tháng 9 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng đã truy tố bị cáo Đặng Phước H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo như Cáo trạng đã đề cập và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt Đặng Phước H từ 01 năm đến 02 năm tù.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Đặng Phước H khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên, thừa nhận Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng truy tố là đúng người, đúng tội, xin Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo cũng như người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo Đặng Phước H thừa nhận: Khoảng 05 giờ 30 phút ngày 20/6/2018, Công an phường D, quận C, thành phố Đà Nẵng tiến hành kiểm tra hành chính Đặng Phước H, phát hiện trong túi quần phía trước bên phải của H có 01 gói nilong bên trong chứa 0,186 gam ma túy loại MDMA nhằm mục đích sử dụng. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, hành vi trên đây của Đặng Phước H đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự như cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân quận Hải Châu đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội thì thấy: Bị cáo Đặng Phước H nhận thức rõ tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vì muốn có ma túy để sử dụng nên vẫn thực hiện hành vi phạm tội. Khung hình phạt bị cáo bị truy tố, xét xử có mức án từ 01 năm đến 05 năm tù nên hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng, không những xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự và an toàn xã hội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, xâm phạm sức khỏe và sự phát triển giống nòi của dân tộc nên cần thiết phải xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc để cải tạo, giáo dục bị cáo.

[3] Về nhân thân: Ngày 18/5/2017 bị cáo H bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường Hòa Cường Bắc ra quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; chấp hành xong ngày 18/8/2017.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình tố tụng cũng như tại phiên tòa, bị cáo Đặng Phước H đã thành khẩn khai báo, thể hiện thái độ ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự được Hội đồng xét xử xem xét, vận dụng khi quyết định hình phạt.

[6] Về quyết định hình phạt chính: Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, căn cứ vào các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải xử phạt bị cáo Đặng Phước H mức án nghiêm khắc, phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo, đồng thời để răn đe, phòng chống tội phạm nói chung.

[7] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo Đặng Phước H không có việc làm và thu nhập ổn định, không có tài sản riêng nên không thỏa mãn các điều kiện để áp dụng cũng như thi hành hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, do đó không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[8] Đối với Trần Cao N cùng sử dụng ma túy với Đặng Phước H: Qua xác minh Nguyên không có mặt tại địa phương Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hải Châu tiếp tục điều tra làm rõ và xử lý sau.

[9] Về án phí: Bị cáo Đặng Phước H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Đặng Phước H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự

Xử phạt Đặng Phước H 15 tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày 17 tháng 7 năm 2018.

2. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội buộc bị cáo Đặng Phước H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.

3. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Đặng Phước H có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; ông Trần Cao N có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 77/2018/HS-ST ngày 25/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:77/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hải Châu - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về