Bản án 77/2018/HS-ST ngày 23/10/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ML, TỈNH SL

BẢN ÁN 77/2018/HS-ST NGÀY 23/10/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện ML, tỉnh SL xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 80/2018/TLST-HS ngày 02/10/2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 88/2018/QĐXXST- HS ngày 11 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo:

Lường Văn T, sinh ngày 10/3/1988, tại Chiềng H, ML, SL; Nơi ĐKHKTT: Bản NQ, xã Chiềng H, huyện ML, tỉnh SL; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lường Văn P, sinh 1954 và bà Lò Thị S, sinh 1957; có vợ là Lò Thị T, có hai con lớn sinh 2011, nhỏ sinh 2013; Tiền án, tiền sự, nhân thân: Có tiền án tại bản án số: 76/2016/HSST ngày 25/7/2016 của Tòa án nhân dân huyện ML, tỉnh SL xét xử Lường Văn T 14 tháng tù về tội trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 23/7/2018; Bị cáo có mặt tại phiên toà.

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Cầm Kim Loan – Trợ giúp viên pháp lý – Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh SL. Có mặt.

- Nguyên đơn dân sự: Trung tâm viễn thông huyện ML, tỉnh SL, địa chỉ: Bản Tráng, thị trấn Ít Ong, huyện ML, tỉnh SL.

- Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn dân sự: Ông Đỗ Quang V, chức vụ giám đốc. Có đề nghị xử vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Lò Văn L, sinh 1986. Trú tại: Bản C, xã Chiềng H, huyện ML, tỉnh SL. Có đề nghị xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Lường Văn T bị Viện kiểm sát nhân dân huyện ML truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 23 giờ 00 phút, ngày 15/6/2018 Lường Văn T, sinh ngày 10/3/1988, trú quán: Bản NQ, xã Chiềng H, huyện ML, tỉnh SL đi từ nhà đến Trạm truyền hình BTS bản Mạo, xã Chiềng Công, khi đi mang theo 03 chiếc cờ lê, 01 chiếc kéo, 01chiếc kìm, 01 đèn pin đi xe máy nhãn hiệu Wave với mục đích trộm cắp tài sản. Khi đến trạm truyền hình Lường Văn T quan sát không thấy ai bảo vệ, dùng kéo cắt tôn chui vào bên trong trạm, cắt cầu giao điện, vặn ốc, cắt các dây điện ra thành nhiều đoạn ném ra ngoài, sau khi chiếm đoạt được cho vào bao tải chở về bản NQ, xã Chiềng H, đến đoạn suối Pia thì lọc bỏ vỏ nhựa lấy lõi đồng. Đến 04 giờ 30 phút cùng ngày, Lường Văn T mang số lõi đồng trộm cắp được đến nhà anh Lò Văn L, sinh 1986. Trú tại: Bản C, xã Chiềng H, huyện ML, tỉnh SL bán cho L được 750.000, đồng. Khi bán nói là dây đồng của nhà mang đi bán. Số tiền bán được Lường Văn T đã chi tiêu cá nhân hết.

Ngày 19/6/2018 đại diện Trung tâm viễn thông huyện ML có đơn trình báo Công an huyện ML, tỉnh SL.

Vật chứng thu giữ:

01 chiếc cờ lê 17 dài 21,5cm; 01 chiếc cờ lê 12 dài 16cm; 01 chiếc cờ lê 13 dài 16cm; 01 chiếc kéo cán bọc bằng nhựa màu xanh dài 20cm; 01 chiếc kìm tay nắm được bọc bằng nhựa màu đỏ đen dài 19cm; 01 đèn pin màu đen hình tròn thu giữ của Lường Văn T.

01 bao tải màu vàng; 09 kg đồng được cắt thành nhiều đoạn các loại thu giữ của Lò Văn L, Lò Văn L khai mua của Lường Văn T với số tiền 750.000, đồng.

Ngày 21/6/2018 Hội đồng định giá xác định: 38m dây cáp điện loại M25 trị giá 900.000, đồng; 06m dây cáp điện loại M4 trị giá 100.000, đồng. Tổng cộng là 1.000.000, đồng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, nguyên đơn dân sự, người bào chữa không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận của Hội đồng định giá nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Lường Văn T đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”.

Bản cáo trạng số: 450/CT-VKS ngày 30 tháng 09 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện ML, tỉnh SL truy tố bị cáo: Lường Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lường Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”; Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Lường Văn T từ 09 đến 12 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt Bổ sung - Phạt tiền đối với bị cáo.

Vật chứng vụ án và trách nhiệm bồi thường: Căn cứ khoản 2 Điều 47, khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Chấp nhận việc Cơ quan điều tra đã trả lại 09 kg đồng được cắt thành nhiều đoạn các loại cho Trung tâm viễn thông huyện ML và Trung tâm viễn thông huyện ML không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm.

Tịch thu tiêu hủy: 01 chiếc cờ lê 17 dài 21,5cm; 01 chiếc cờ lê 12 dài 16cm;

01 chiếc cờ lê 13 dài 16cm; 01 chiếc kéo cán bọc bằng nhựa màu xanh dài 20cm;

01 chiếc kìm tay nắm được bọc bằng nhựa màu đỏ đen dài 19cm; 01 đèn pin màu đen hình tròn; 01 bao tải màu vàng thu giữ của Lường Văn T.

Buộc bị cáo phải bồi thường trả cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Lò Văn L số tiền 750.000, đồng.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa Kiểm sát viên giữ nguyên Quyết định truy tố. Bị cáo, nguyên đơn dân sự, người bào chữa nhất trí với Quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Tại phiên tòa người bào chữa cho bị cáo phát biểu lời bào chữa đưa ra những tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo là có căn cứ chấp nhận.

Lời nói sau cùng của bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Đại diện hợp pháp của nguyên đơn dân sự Trung tâm viễn thông huyện ML đề nghị được xét xử vắng mặt, đã nhận được đủ tài sản và không yêu cầu bồi thường gì thêm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Lò Văn L đề nghị được xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt họ vẫn đảm bảo quyền lợi của họ.

[2]. Xét về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện ML, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện ML, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người bào chữa không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3]. Tại phiên toà bị cáo Lường Văn T thừa nhận: Ngày 15/6/2018 đã lén lút, bí mật chiếm đoạt các dây cấp điện của trạm truyền hình Chiềng H, huyện ML thuộc Trung tâm viễn thông huyện ML, tỉnh SL có trị giá là 1.000.000, đồng.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa ngày hôm nay phù hợp với các chứng cứ đã được thu thập: Lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; đơn trình báo của người bị hại, lời khai của người làm chứng, vật chứng của vụ án, biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản định giá tài sản.

Bị cáo Lường Văn T chiếm đoạt tài sản giá trị dưới 2.000.000, đồng nhưng đã có tiền án về tội trộm cắp tại bản án số: 76/2016/HSST ngày 25/7/2016 của Tòa án nhân dân huyện ML, tỉnh SL xét xử Lường Văn T 14 tháng tù về tội trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích.

Từ các căn cứ trên có đủ cơ sở kết luận: Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản trị giá 1.000.000, đồng của bị cáo Lường Văn T đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt Bổ sung - Phạt tiền đối với bị cáo do không có tài sản.

Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý, xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của công dân, trật tự an toàn xã hội, do đó bị cáo phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s “Người phạm tội thành khẩn khai báo” khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân không tốt: Có biểu hiện hành vi trộm cắp vặt, có sử dụng ma túy.

[4]. Vật chứng vụ án và trách nhiệm bồi thường: Căn cứ khoản 2 Điều 47, khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Chấp nhận việc Cơ quan điều tra đã trả lại 09 kg đồng được cắt thành nhiều đoạn các loại cho Trung tâm viễn thông huyện ML và Trung tâm viễn thông huyện ML không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm.

Tịch thu tiêu hủy: 01 chiếc cờ lê 17 dài 21,5cm; 01 chiếc cờ lê 12 dài 16cm;

01 chiếc cờ lê 13 dài 16cm; 01 chiếc kéo cán bọc bằng nhựa màu xanh dài 20cm;

01 chiếc kìm tay nắm được bọc bằng nhựa màu đỏ đen dài 19cm; 01 đèn pin màu đen hình tròn; 01 bao tải màu vàng thu giữ của Lường Văn T.

Buộc bị cáo phải bồi thường trả cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Lò Văn L số tiền 750.000, đồng do anh Lò Văn L mua bán đồng nhưng không biết là do bị cáo trộm cắp mà có.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự, dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tuyên bố bị cáo Lường Văn T phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Lường Văn T 11 (mười một) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam từ ngày 23/7/2018.

Không áp dụng hình phạt Bổ sung - Phạt tiền đối với bị cáo.

2. Vật chứng vụ án và trách nhiệm bồi thường: Căn cứ khoản 2 Điều 47, khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Chấp nhận việc Cơ quan điều tra đã trả lại 09 kg đồng được cắt thành nhiều đoạn các loại cho Trung tâm viễn thông huyện ML và Trung tâm viễn thông huyện ML không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm.

Tịch thu tiêu hủy:

01 chiếc cờ lê 17 bằng kim loại màu trắng bạc dài 21,5cm, đã qua sử dụng;

01 chiếc cờ lê 12 bằng kim loại màu trắng bạc dài 16cm, đã qua sử dụng;

01 chiếc cờ lê 13 kim loại màu trắng bạc dài 16cm, đã qua sử dụng;

01 chiếc kéo được làm bằng kim loại màu đen, cán bọc bằng nhựa màu xanh, chiếc kéo có độ dài 20cm, đã qua sử dụng;

01 chiếc kìm được làm bằng kim loại màu đen, tay nắm kìm được bọc bằng một lớp nhựa màu đỏ đen, chiếc kìm có độ dài 19cm, đã qua sử dụng;

01 chiếc đèn pin màu đen, hình tròn, có các sợi dây cao su, đã qua sử dụng;

01 bao tải màu vàng, đã qua sử dụng.

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 05/10/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện ML, tỉnh SL.

Buộc bị cáo Lường Văn T phải bồi thường trả cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Lò Văn L số tiền 750.000, đồng (bẩy trăm năm mươi triệu đồng).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về Án phí, Lệ phí Tòa án.

Buộc Lường Văn T phải chịu 200.000, đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 300.000, đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tên án sơ thẩm, ngày 23/10/2018.

Nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

409
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 77/2018/HS-ST ngày 23/10/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:77/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về