TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHI LĂNG, TỈNH LẠNG SƠN
BẢN ÁN 77/2018/HS-ST NGÀY 03/10/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 03 tháng 10 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự sơ thẩm thụ lý số 75/2018/TLST-HS ngày 19 tháng 9 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 76/2018/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 9 năm 2018 đối với bị cáo:
Nông Văn A, sinh ngày 24 tháng 4 năm 1991 tại huyện C, tỉnh Lạng Sơn. Nơi đăng ký thường trú: Thôn K, xã H, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông: Nông Văn T và bà: Bành Thị X; vợ: Phùng Thị D, con: Có 01 con; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Chưa bị pháp luật xử lý; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/7/2018 tại Nhà tạm giữ Công an huyện Chi Lăng đến nay. Có mặt.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Phùng Thị D, nơi cư trú: Thôn K, xã H, huyện C, tỉnh Lạng Sơn, có mặt.
- Người chứng kiến: Anh Phương Văn G, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 19 giờ ngày 01/7/2018 tại thôn K, xã H, huyện C, tỉnh Lạng Sơn, Công an huyện Chi Lăng kiểm tra phát hiện và thu giữ trong lòng bàn tay trái của Nông Văn A 01 túi nilon trong suốt bên trong có 90 gói giấy trắng; 01 gói giấy bạc bên trong đều chứa chất bột màu trắng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobiistar màu vàng trắng đã qua sử dụng. A khai nhận toàn bộ chất bột màu trắng trên là chất ma túy Heroine do A mua về để sử dụng và bán lại cho các đối tượng nghiện.
Tại Bản kết luận giám định số 265/KL - PC54 ngày 04/7/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chất bột màu trắng có trong 90 gói giấy trắng và 01 gói giấy bạc thu giữ của Nông Văn A gửi giám định đều là chất ma túy Heroine, có tổng khối lượng 0,742 gam.
Tại Cơ quan điều tra Nông Văn A khai nhận: Khoảng tháng 5/2018 qua mạng xã hội Zalo, Nông Văn A có quen biết với một người đàn ông tên S hay gọi là “S Thanh Hóa” (Nông Văn A không biết rõ họ, địa chỉ và cũng chưa được gặp mặt bao giờ, người này chỉ nói anh ta tên là S và hiện tại đang làm việc tại tỉnh Bắc Ninh), trong các cuộc trò chuyện qua mạng xã hội Zalo, S Thanh Hóa nói với Nông Văn A “Có muốn lấy ma túy về để sử dụng không, để tao lấy cho”. Lúc này, Nông Văn A nảy sinh ý định mua ma túy về để sử dụng và bán lại cho các đối tượng nghiện khác để kiếm lời nên đã bảo S Thanh Hóa “Thế mày lấy cho tao rồi tao trả tiền sau”. Nông Văn A đã bảo S Thanh Hóa bán cho số ma túy với giá 2.000.000đ (hai triệu đồng) nhưng Nông Văn A chưa trả tiền, khi nào Nông Văn A nhận được số ma túy về để sử dụng và bán lại số ma túy đó cho các đối tượng nghiện khác đủ 2.000.0000đ (hai triệu đồng) thì Nông Văn A sẽ gửi xe khách trả tiền cho S Thanh Hóa. Ngày 01/7/2018 S Thanh Hóa nhắn tin qua Zalo cho Nông Văn A nói hôm nay sẽ gửi ma túy về cho Nông Văn A và để ma túy ở cột điện cách nhà A khoảng 50m. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày thì S Thanh Hóa nhắn tin qua Zalo cho Nông Văn A thông báo ma túy đã được để ở cột điện. Nông Văn A đi bộ từ nhà ra chỗ cột điện theo như tin nhắn chỉ dẫn của S Thanh Hóa thì thấy ở cột điện có 01 túi nilon trong suốt bên trong có các gói nhỏ ma túy Heroine. A cầm túi nilon có chứa ma túy Heroine trong lòng bàn tay trái và đi về nhà thì bị Công an huyện Chi Lăng bắt quả tang cùng tang vật. Đối với người đàn ông tên S (S Thanh Hóa) đã bán ma túy cho Nông Văn A, do không biết thông tin cụ thể nên không thể tiến hành điều tra, xác minh.
Tại bản Cáo trạng số 78/CT-VKS ngày 18 tháng 9 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chi Lăng đã truy tố bị cáo Nông Văn A về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa bị cáo Nông Văn A đã khai nhận hành vi mua ma túy về để sử dụng và bán lại, cùng toàn bộ nội dung vụ án.
Kết thúc phần xét hỏi Kiểm sát viên trình bày bản luận tội và giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nông Văn A theo tội danh và điều luật như trên. Sau khi đánh giá tính chất vụ án, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38, 50 Bộ luật hình sự năm 2015.
Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nông Văn A phạm tội: Mua bán trái phép chất ma túy. Xử phạt bị cáo Nông Văn A từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung.
Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; khoản 1, điểm a khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì thư bên trong đựng 0,541 gam ma túy Heroine. Trả lại 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Mobiistar cho chị Phùng Thị D.
Bị cáo Nông Văn A không có ý kiến tranh luận, bị cáo thừa nhận việc truy tố là đúng người, đúng tội, không oan. Lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng lượng khoan hồng của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Chi Lăng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chi Lăng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nông Văn A khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu ở trên, lời khai của bị cáo phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an huyện Chi Lăng lập ngày 01/7/2018, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được trong hồ sơ. Các chứng cứ đó phù hợp với nhau về thời gian, địa điểm, hành vi, có đủ cơ sở để kết luận:
[3] Ngày 01/7/2018 Nông Văn A thực hiện hành vi mua trái phép chất ma túy tại thôn K, xã H, huyện C, tỉnh Lạng Sơn thì bị Công an huyện Chi Lăng phát hiện bắt quả tang, bắt giữ cả người cùng tang vật. Theo Kết luận giám định số 265/KL - PC54 ngày 04/7/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận:
Chất bột màu trắng có trong 90 gói giấy trắng và 01 gói giấy bạc thu giữ của Nông Văn A gửi giám định đều là chất ma túy Heroine, có tổng khối lượng 0,742 gam. [4] Bị cáo Nông Văn A là người có năng lực trách nhiệm hình sự. Do vậy có đủ khả năng để nhận thức việc mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng vì mục đích có ma túy để sử dụng, có tiền để tiếp tục mua ma túy và tiêu sài cá nhân, bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Vậy đã có đủ các căn cứ để kết luận bị cáo Nông Văn A phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015.
[5] Hành vi phạm tội của bị cáo Nông Văn A là nguy hiểm cho xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội và chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước ta đối với các chất gây nghiện, hành vi mua bán trái phép chất ma túy của bị cáo để sử dụng cho bản thân và bán lại cho các con nghiện, đã tác động trực tiếp đến sức khỏe con người của chính bị cáo, làm ảnh hưởng đến đời sống vâ t chất gia đình, ai cũng biết tác hại của ma túy làm suy thoái đạo đức lối sống, sự phát triển nòi giống và là nguyên nhân dẫn đến các tô i phạm khác. Hội đồng xét xử xét thấy cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc, tương xứng với hành vi bị cáo đã thực hiện, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để bị cáo tu dưỡng rèn luyện bản thân và phòng ngừa chung. Do đó Viện kiểm sát nhân dân huyện Chi Lăng truy tố bị cáo là có căn cứ cần chấp nhận.
[6] Khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cân nhắc đến tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo Nông Văn A.
[7] Về tính chất, mức độ của hành vi: Bị cáo đã sử dụng mạng xã hội để liên hệ mua bán ma túy với thủ đoạn tinh vi nhưng hành vi đã được phát hiện và ngăn chặn kịp thời nên chưa gây hậu quả; về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, là đối tượng nghiện ma túy; về tình tiết tăng nặng: Không có; về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà Nông Văn A thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; nên cho bị cáo được hưởng 02 tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Tạo điều kiện cho bị cáo cải tạo, tu dưỡng, sớm trở thành công dân tốt, biết tôn trọng pháp luật.
[8] Trên cơ sở xem xét đánh giá tính chất mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Thấy rằng bị cáo Nông Văn A có nhân thân xấu, hành vi phạm tội là nghiêm trọng, tuy có 02 tình tiết giảm nhẹ nhưng cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm, răn đe, giáo dục bị cáo, đồng thời tăng cường giáo dục và phòng ngừa chung, thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật. Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo vì không có khả năng thi hành, bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định, sống phụ thuộc, không có tài sản riêng.
[9] Về vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; khoản 1, điểm a khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì thư bên trong đựng 0,541 gam ma túy Heroine (hoàn lại sau giám định), vì là vật cấm lưu hành. Trả lại 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Mobiistar cho chị Phùng Thị D vì là tài sản riêng của chị D, Nông Văn A dùng vào việc phạm tội chị D không biết.
[10] Về án phí: Bị cáo Nông Văn A phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
[11] Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[12] Đối với người đàn ông tên S Thanh Hóa đã bán ma túy cho Nông Văn A do không biết thông tin cụ thể nên không thể tiến hành điều tra, xác minh. Việc Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau là phù hợp và đúng quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, các Điều 38, 50, điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015. Căn cứ khoản 1, điểm a khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên bố bị cáo Nông Văn A phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Nông Văn A 03 (ba) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 01/7/2018.
Về xử lý vật chứng:
Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì thư bên trong đựng 0,541 gam ma túy Heroine còn lại sau giám định. Trả lại 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Mobiistar màu vàng đã qua sử dụng cho chị Phùng Thị D trú tại: Thôn K, xã H, huyện C, tỉnh Lạng Sơn.
(Vật chứng này hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chi Lăng, theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Chi Lăng và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chi Lăng ngày 19/9/2018).
Về án phí: Buộc bị cáo Nông Văn A phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm sung công quỹ Nhà nước.
Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 77/2018/HS-ST ngày 03/10/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 77/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Chi Lăng - Lạng Sơn |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 03/10/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về