Bản án 76/2021/HNGĐ-ST ngày 22/06/2021 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH AN GIANG

 BẢN ÁN 76/2021/HNGĐ-ST NGÀY 22/06/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 22 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 148/2021/TLST-HNGĐ ngày 30 tháng 3 năm 2021 về “Ly hôn” theo Quyết định Đưa vụ án ra xét xử số 130/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 27 tháng 5 năm 2021 giữa các đương sự:

1.Nguyên đơn: Bà H T A H, sinh năm 1984 (vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt ngày 29-4-2021) ĐKHKTT: Tổ 19, ấp H H, xã H B T, huyện C T, tỉnh An Giang. Tạm trú: Tổ 14, khóm V T, thị trấn V B, huyện C T, tỉnh An Giang.

2.Bị đơn: Ông N Đ T, sinh năm 1975 (vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt ngày 17-5-2021) Nơi cư trú: Tổ 19, ấp H H, xã H B T, huyện C T, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại Đơn khởi kiện xin ly hôn, Bản tự khai ngày 16-3-2021 và Đơn xin vắng mặt phiên họp công khai chứng cứ, không tham gia hòa giải và xin vắng mặt các phiên tòa xét xử vụ án ngày 29-4-2021, nguyên đơn bà H T A H trình bày:

+Về hôn nhân: Bà và ông N Đ T kết hôn năm 2002, hôn nhân do mai mối, có tổ chức đám cưới. Có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn V B, huyện C T, tỉnh An Giang số 225 ngày 19-12-2002. Sau khi cưới vợ chồng sống bên chồng, đến năm 2007 cất nhà ra sống riêng; thời gian này vợ chồng hay cải nhau, ông T nhiều lần đánh bà. Năm 2012 bà bỏ lên tỉnh Bình Dương làm công nhân, vợ chồng sống ly thân cho đến nay. Nay bà nhận thấy không còn tình cảm với ông T, mục đích hôn nhân không đạt được, nên xin ly hôn với ông N Đ T.

+Về con chung: Có 02 con chung tên N T T, sinh ngày 22-6-2004 và N C D, sinh ngày 10-5-2007. Hiện ông T đang nuôi con. T đã nghỉ học, D học lớp 8. Nếu ly hôn bà đồng ý để ông T được tiếp tục nuôi con.

+Về cấp dưỡng nuôi con: Bà không cấp dưỡng nuôi con.

+Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

+Về nợ chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại Biên bản lấy lời khai ngày 17-5-2020, bị đơn ông N Đ T trình bày:

+Về hôn nhân: Ông và bà H T A H kết hôn năm 2002, hôn nhân do mai mối, có tổ chức đám cưới. Có đăng ký kết hôn. Vợ chồng chung sống hạnh phúc khoảng 8 năm, đến năm 2013 vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn. Do cuộc sống gia đình khó khăn về kinh tế, H phải đi làm ở quán ăn Thần Tài. Ngày 05-5- 2013, H nói đi lấy tiền của ai đó, ông không cho, khi H về xảy ra việc ông đánh H, H bỏ nhà ra đi cho đến nay, vợ chồng sống ly thân từ tháng 6/2013 cho đến nay. Hiện nay H đã có gia đình khác và có 2 đứa con. Nay H xin ly hôn với ông, ông đồng ý ly hôn.

+Về con chung: Có 02 con chung tên N T T, sinh ngày 22-6-2004 và N C D, sinh ngày 10-5-2007. Hiện ông đang nuôi con. Nếu ly hôn ông đồng ý tiếp tục nuôi con.

+Về cấp dưỡng nuôi con: Ông không yêu cầu H cấp dưỡng nuôi con.

+Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

+Về nợ chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại Tờ tự khai ngày 17-5-2020, cháu N T T trình bày: Cháu tên N T T, cháu được biết mẹ cháu là H T A H ly hôn với ba cháu là N Đ T. Nếu ba mẹ cháu ly hôn, cháu có nguyện vọng sống với ba.

Tại Biên bản lấy lời khai ngày 17-5-2020, cháu N C D trình bày: Cháu tên N C D, sinh ngày 10-5-2007, cháu đang sống với ba, cháu đang học lớp 8 trường Trung học Cơ sở H B T. Mẹ cháu không về thăm cháu cũng không lo lắng quan tâm. Cháu được biết mẹ cháu là H T A H ly hôn với ba cháu là N Đ T. Nếu ba mẹ cháu ly hôn, cháu có nguyện vọng sống với ba.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh An Giang phát biểu quan điểm như sau:

1/Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án đã thực hiện đầy đủ trình tự thủ tục tố tụng được pháp luật quy định tại Bộ Luật Tố tụng Dân sự.

2/Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về con chung tiếp tục ổn định cho ông T nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Đối với nguyên đơn bà H T A H, bị đơn ông N Đ T; Tòa án đã tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử; nguyên đơn bà H và bị đơn ông T có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 227 và Điều 228 của Bộ Luật Tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt theo thủ tục chung đối với nguyên đơn bà H và bị đơn ông T.

[2] Về hôn nhân: Bà H T A H và ông N Đ T kết hôn năm 2002, hôn nhân do mai mối, có tổ chức đám cưới. Có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn V B, huyện C T, tỉnh An Giang số 225 ngày 19-12-2002 theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, nên hôn nhân này là hợp pháp và được pháp luật bảo vệ. Bà H có yêu cầu ly hôn. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án tổ chức hòa giải để hàn gắn lại tình cảm giữa bà H và ông T; bà H có yêu cầu không tham gia hòa giải, ông T vắng mặt 2 lần nên không hòa giải được.

Xét thấy: Từ tháng 6/2013, giữa bà H và ông T phát sinh nhiều mâu thuẫn dẫn đến vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay. Tại Biên bản lấy lời khai ngày 17-5-2021, ông T trình bày đồng ý ly hôn. Từ khi sống ly thân đến nay cả bà H và ông T đều không có thiện chí hàn gắn lại tình cảm vợ chồng. Điều này cho thấy mâu thuẫn giữa bà H và ông T là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Đối chiếu với quy định của pháp luật tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Hội đồng xét xử xét thấy nên chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là bà H được ly hôn với ông T là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Về con chung: Bà H T A H và ông N Đ T có 02 con chung. Khi ly hôn bà H đồng ý để ông T được tiếp tục nuôi con, ông T cũng đồng ý nuôi con.

Xét thấy: Cháu T 17 tuổi và cháu D 14 tuổi. Cả 2 cháu đều có nguyện vọng sống với ông T khi bà H và ông T ly hôn. Đối chiếu với quy định của pháp luật tại khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Vì vậy, để không làm thay đổi cuộc sống cũng như sự phát triển tâm sinh lý của 2 cháu; Hội đồng xét xử xét thấy nên để cho ông T được tiếp tục nuôi dưỡng 2 con chung là phù hợp.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Ông N Đ T không yêu cầu bà H T A H cấp dưỡng nuôi con. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về tài sản chung: Bà H T A H và ông N Đ T thống nhất trình bày tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về nợ chung: Bà H T A H và ông N Đ T thống nhất trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí: Đối chiếu với quy định của pháp luật tại khoản 4 Điều 147 của Bộ Luật Tố tụng Dân sự; Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30-12-2016, của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, nguyên đơn bà H T A H phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào 300.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số 0007256 ngày 30-3-2021 của Chi Cục Thi hành án Dân sự huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.

[8] Về quyền kháng cáo: Đối chiếu với quy định của pháp luật tại Điều 271 và Điều 273 của Bộ Luật Tố tụng Dân sự. Nguyên đơn bà H T A H, bị đơn ông N Đ T vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

Khoản 1 Điều 28; Điểm a khoản 1 Điều 35; Điểm a khoản 1 Điều 39;khoản 4 Điều 147; Các Điều 227, 228, 266, 271 và 273 của Bộ Luật Tố tụng Dân sự;

Các Điều 9, 56, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30-12-2016, của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, Xử:

[1] Về hôn nhân: Bà H T A H được ly hôn với ông N Đ T.

Giấy chứng nhận kết hôn số 225 ngày 19-12-200 của Ủy ban nhân dân xã V B, huyện C T, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý.

[2] Về con chung: Ông N Đ T được tiếp tục nuôi dưỡng 02 con chung tên N T T, sinh ngày 22-6-2004 và N C D, sinh ngày 10-5-2007.

Ông N Đ T và các thành viên trong gia đình ông T không được cản trở bà H T A H trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con theo quy định tại khoản 2 Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Bà H T A H lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì ông T có quyền yêu cầu Toà án hạn chế quyền thăm nom con của bà H theo quy định tại khoản 3 Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về án phí: Nguyên đơn bà H T A H phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào 300.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số 0007256 ngày 30-3-2021 của Chi Cục Thi hành án Dân sự huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.

[4] Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn bà H T A H, bị đơn ông N Đ T vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

235
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 76/2021/HNGĐ-ST ngày 22/06/2021 về ly hôn

Số hiệu:76/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về