Bản án 76/2020/HS-ST ngày 29/05/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

 BN ÁN 76/2020/HS-ST NGÀY 29/05/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Mở phiên tòa công khai ngày 29 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 78/2020/HSST ngày 29 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

NGUYỄN ĐỨC T, sinh năm 1969. HKTT: Tổ 9, phường Y, quận H, Hà Nội. Nay là: Số 24, ngõ 9, tổ 9, phường Y, quận H, Hà Nội. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 12/12. Con ông Nguyễn Đức K (đã chết) và bà Lê Thị B (đã chết). Có vợ là Nguyễn Thị L và 02 con (con lớn sinh năm 2000, con nhỏ sinh năm 2002). Tiền sự: Không.

Tiền án:

- Bản án số 15/2012/HSST ngày 14/02/2012 của Tòa án nhân dân huyện T, Hà Nội xử phạt 32 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đã chấp hành xong hình phạt.

- Bản án số 158/2012/HSST ngày 14/9/2015 của Tòa án nhân dân quận H, Hà Nội xử phạt 36 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đã chấp hành xong hình phạt ngày 08/02/2018.

Nhân thân:

- Bản án số 26/HSST/1991 ngày 28/5/1991 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Hà tây xử phạt 09 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”. Tài sản chiếm đoạt trị giá 415.000 đồng.

- Bản án số 40 ngày 14/11/2003 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Hà tây và Bản án số 108/HSPT/2003 ngày 19/12/2003 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tây xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tài sản chiếm đoạt trị giá 900.000 đồng.

- Bản án số 209/HSST/2007 ngày 15/11/2007 của Tòa án nhân dân Thành phố H, tỉnh Hà Tây xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tài sản chiếm đoạt trị giá 400.000 đồng.

Từ năm 1994 đến năm 2003, nhiều lần bị Cơ quan có thẩm quyền xử lý hành chính về các hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” và “Trộm cắp tài sản”.

Danh chỉ bản số 136 lập ngày 07/2/2020 tại Công an quận Hà Đông, Hà Nội.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/02/2020. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 2 - Công an thành phố Hà Nội. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 11 giờ 20 phút ngày 04/02/2020, tại nhà số 24, ngõ 9, Tổ 9, phường Y, quận H, Hà Nội, tổ công tác Công an quận H phối hợp Công an phường Y kiểm tra, phát hiện bắt quả tang Nguyễn Đức T cất giữ tại đầu giường phòng ngủ 01 gói nilon màu xanh trong có gồm 15 gói nhỏ và 01 gói nilon màu trắng có chứa tinh thể màu trắng; T khai nhận đây là ma túy T mua để sử dụng và tìm người mua bán lại kiếm lời. Vật chứng thu giữ gồm: 01 gói nilon màu xanh bên trong có chứa 15 gói giấy đều chứa chất bột màu trắng; 01 gói nilon màu trắng bên trong chứa tinh thể màu trắng.

Quá trình điều tra, T khai nhận: Khoảng 21 giờ 00 phút ngày 03/02/2020, T đi xe ôm từ nhà đến khu vực Cầu Bươu, huyện Thanh Trì mua của một thanh niên không quen biết 1.500.000 đồng được 01 gói heroin gồm 15 gói nhỏ và 01 gói ma túy đá; mục đích về sử dụng và bán lại kiếm lời. T mang số ma túy về nhà lấy một ít ma túy đá ra sử dụng. Số ma túy còn lại cất ở đầu giường ngủ. Khoảng 10 giờ 45 phút ngày 04/2/2020, T ngủ dậy định mang ma túy đi bán thì bị tổ công tác Công an quận Hà Đông, phối hợp Công an phường Y kiểm tra phát hiện, bắt quả tang cùng vật chứng.

Tại Bản kết luận giám định số: 919/KLGĐ-PC09 ngày 10/2/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội kết luận: “Chất bột màu trắng bên trong 15 gói giấy đều là ma túy loại Heroin, tổng khối lượng 1.057gam; Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilon là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng: 0,508 gam.” Về nguồn gốc ma túy, T khai mua của người không quen biết tại khu vực C, huyện N, Hà Nội. Ngoài lời khai của T thì không có tài liệu nào khác chứng minh, nên không có căn cứ điều tra xử lý.

Tại Cáo trạng số 79/CT-VKS-HS ngày 29/4/2020, Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông đã truy tố Nguyễn Đức T về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm q khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự;

Tại phiên tòa, Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố; sau khi xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm q khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Đức T 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: Số ma túy đã thu giữ của bị cáo không còn giá trị sử dụng nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Bị cáo xin được xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai nhận tội của bị cáo và các tài liệu chứng cứ khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Hà Đông, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Có đủ căn cứ xác định: Khoảng 11 giờ 20 phút ngày 04/02/2020, tại nhà số 24, ngõ 9, tổ 9, phường Y, quận H, Hà Nội, tổ công tác Công an quận Hà Đông phối hợp Công an phường Y kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang Nguyễn Đức T cất giữ tại đầu giường phòng ngủ 01 gói nilon màu xanh trong có gồm 15 gói nhỏ heroin khối lượng 1,057gam và 01 gói nilon màu trắng có 0,508gam ma túy loại Methamphetamine; T khai nhận số ma túy T mua để sử dụng cho bản thân và tìm người mua bán lại kiếm lời.

Hành vi nêu trên của bị cáo đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo có 02 tiền án chưa được xóa án lại tiếp tục phạm tội do cố ý nên thuộc trường hợp tăng nặng định khung “Tái phạm nguy hiểm”; Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm q khoản 2 điều 251 Bộ luật hình sự như cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông, Hà Nội đã truy tố.

[3] Về tính chất vụ án, hành vi phạm tội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy, làm gia tăng tệ nạn ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến đời sống xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và quyết định hình phạt: Bị cáo đã nhiều lần bị pháp luật xử lý về hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến ma túy nhưng không lấy đó làm bài học để tu dưỡng rèn luyện mà vẫn tiếp tục lao vào con đường phạm tội. Vì vậy cần có hình phạt phù hợp đủ tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa thành khẩn khai báo nên được xem xét giảm nhẹ hình phạt theo quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung.

[5] Về xử lý vật chứng : Số ma túy đã thu giữ của bị cáo không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Từ những nhận định trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Áp dụng điểm q khoản 2 điều 251; điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt: Nguyễn Đức T 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 04/02/2020.

3. Về vật chứng: Áp dụng điều 47 Bộ luật Hình sự; điều 106 Bộ luật Tố Tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư của Công an Thành phố Hà Nội dán kín, tại các mép dán có chữ ký của Nguyễn Đức T, cán bộ Nguyễn Hoàng Phi Long và giám định viên Lê Khắc Nam.

(Tình trạng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/5/2020 giữa Công an quận Hà Đông và Chi cục Thi hành án dân sự quận Hà Đông).

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 76/2020/HS-ST ngày 29/05/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:76/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hà Đông - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về