Bản án 76/2020/HS-ST ngày 29/05/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VĨNH YÊN - TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 76/2020/HS-ST NGÀY 29/05/2020 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 57/2020/HSST ngày 17 tháng 4 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 60/2020/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Minh T, sinh ngày 30 tháng 11 năm 1994 tại Vĩnh Phúc; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Tổ dân phố B, thị trấn T, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Q và bà Phạm Thị Thanh H; có vợ là Bùi Thị Thúy V và có 01 con; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: Ngày 28/12/2016, Công an huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Nguyễn Minh T về hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác, mức phạt 1.500.000đ, T chưa nộp phạt (T được hưởng thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính). Ngày 04/9/2019, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Nguyễn Minh T về tội “Cướp giật tài sản”; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 19/02/2020 theo Quyết định tạm giữ của Công an thành phố Vĩnh Yên đến ngày 22/02/2020 chuyển tạm giam theo Lệnh tạm giam của Công an thành phố Thái Nguyên. Hiện đang tạm giam tại trại tạm giam công an tỉnh Thái Nguyên (có mặt).

- Bị hại: Anh Nguyễn Thế C, sinh năm 1993; Trú tại: thôn H, xóm X, xã Mê Linh, huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do không có tiền tiêu xài nên khoảng 08 giờ ngày 31/10/2019, Nguyễn Minh T đã nảy sinh ý định đăng thông tin lên mạng xã hội Facebook giao bán 01 xe máy nhãn hiệu Honda SH (thực tế T không có chiếc xe máy nào) để nếu có ai hỏi mua T sẽ yêu cầu họ đặt cọc tiền rồi chiếm đoạt số tiền này.

Ngay sau khi Tâm đăng thông tin, anh Nguyễn Thế C đã gọi điện cho T, đặt vấn đề muốn mua chiếc xe máy trên. Để tạo lòng tin với anh C, T đã gửi cho anh C hình ảnh 01 xe máy nhãn hiệu Honda SH (do Tâm tải từ trên mạng Internet về điện thoại của T trước đó) và 01 thẻ căn cước công dân số 026094000388 mang tên Nguyễn Minh T. Hai bên thỏa thuận giá bán chiếc xe máy nhãn hiệu Honda SH là 55.000.000đ. T yêu cầu anh C phải chuyển khoản trước cho T số tiền 1.000.000đ vào tài khoản số 9704229244253949 của T mở tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội (MBBank). Do tin tưởng T nên khoảng 10 giờ cùng ngày, anh C đến Ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam, chi nhánh huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội chuyển số tiền 1.000.000đ vào tài khoản của T mở tại ngân hàng MBBank với nội dung “Em C cọc xe SH”. Sau khi nhận được tiền của anh C, T liên hệ với anh C và hẹn gặp anh C tại khu vực Siêu thị BigC Vĩnh Phúc, ở phường Khai Quang, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc để giao dịch mua bán xe máy. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày, anh C cùng vợ là chị Trần Thị Mỹ L đi đến quán nước ở khu vực siêu thị BigC Vĩnh Phúc của chị Ngô Thị H để gặp T. Về phía T, sau khi liên lạc với anh C, T đã thuê anh Kiều Văn T1 (là người hành nghề lái xe taxi gia đình) dùng ô tô nhãn hiệu Huyndai Accent BKS 88A – 290.48 để chở T xuống điểm hẹn. Khi đến gần quán nước của chị H ở khu vực Siêu thị BigC Vĩnh Phúc, T bảo anh T1 chờ T một lúc rồi Tâm xuống xe, đi bộ đến quán nước của chị H để gặp vợ chồng anh C. Tại đây, T yêu cầu anh C đưa thêm cho T số tiền 14.000.000đ để đặt cọc rồi T sẽ đưa anh C đi xem xe máy và bàn giao xe. Do tin tưởng T nên anh C đưa số tiền 14.000.000đ cho T. Sau khi nhận tiền, T đi lên xe ô tô anh T1 đang chờ sẵn và bảo anh C đi phía sau xe ô tô đến khu vực gầm cầu vượt gần Siêu thị BigC, ở phường Khai Quang, thành phố Vĩnh Yên để xem xe và đi thử xe, anh C đồng ý. Khi đến khu vực trên, T bảo anh C chờ ở đây một lúc để T gọi người đem xe máy đến. Lúc này, T nói với anh T1 “đang có việc gấp” và bảo anh T1 điều khiển xe ô tô chở T về nhà ở xã Cao Phong, huyện Sông Lô. Số tiền chiếm đoạt được của anh C, T đã tiêu xài cá nhân hết.

Ngày 31/10/2020, anh Nguyễn Thế C đã đến Công an phường Khai Quang, thành phố Vĩnh Yên để trình báo sự việc bị T lừa đảo chiếm đoạt số tiền 15.000.000đ và giao nộp cho cơ quan công an 01 giấy nộp tiền.

Quá trình điều tra, CQĐT đã tiến hành kiểm tra điện thoại của anh Nguyễn Thế C, tại mục hình ảnh phát hiện hình ảnh căn cước công dân của Nguyễn Minh T và hình ảnh chụp chính diện mặt trước xe máy nhãn hiệu Honda SH màu đen không rõ BKS.

Đối với số tiền 15.000.000đ là tiền của anh C bị T chiếm đoạt, quá trình điều tra xác định, sau khi chiếm đoạt số tiền trên của anh C, T đã tiêu xài cá nhân hết nên CQĐT không thu hồi được số tiền trên.

Về trách nhiệm dân sự: Anh C yêu cầu Nguyễn Minh T phải bồi thường cho anh toàn bộ số tiền mà T đã chiếm đoạt là 15.000.000 đồng.

Tại bản Cáo trạng số: 66/CT-VKSTP.VY ngày 15 tháng 4 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Yên - tỉnh Vĩnh Phúc đã truy tố bị cáo Nguyễn Minh T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự.

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Minh T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Nguyễn Minh T và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm s khoản 1Điều 51Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Tâm từ 01 (một) năm 03 (ba) tháng đến 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù.

Bị cáo không bào chữa và tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên và Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp

[2]. Bị cáo Nguyễn Minh T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Yên đã truy tố. Xét lời nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, người làm chứng và những tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án được thu thập khách quan, đúng pháp luật, có đủ cơ sở kết luận:

Do không có tiền tiêu sài, ngày 31/10/2019 Nguyễn Minh T đã dùng thủ đoạn gian dối đăng thông tin giao bán xe máy Honda SH lên mạng xã hội (thực tế không có xe máy) để giao dịch với anh Nguyễn Thế C (người có nhu cầu mua xe) yêu cầu anh C đặt cọc tổng số tiền 15.000.000 đồng để thực hiện giao dịch mua bán xe máy rồi chiếm đoạt toàn bộ số tài sản trên.

Hành vi của T đã đủ yếu tố để cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự có khung hình phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Do vậy, việc Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Yên truy tố bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và không oan.

[3]. Xét tính chất vụ án tuy ít nghiêm trọng nhưng hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự trị an tại địa phương và xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của cá nhân được pháp luật bảo vệ, do vậy cần xử lý nghiêm minh.

[4]. Xét nhân thân cũng như tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy rằng: Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ, nhận thức được hành vi của mình là phạm pháp song do tham lam tư lợi nên bất chấp hậu quả để thực hiện hành vi phạm tội. Bản thân bị cáo là người có nhân thân xấu, đã từng bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác. Trước khi thực hiện hành vi phạm tội này, bị cáo đã bị công an thành phố Thái Nguyên khởi tố về tội “Cướp giật tài sản”. Điều đó chứng tỏ sự bất chấp, coi thường pháp luật của bị cáo nên cần phải xử lý nghiêm đối với bị cáo mới đảm bảo tác dụng răn đe và phòng ngừa chung. Tuy nhiên khi xem xét lượng hình, Hội đồng xét xử xét thấy, tại cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật, yên tâm cải tạo. Mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo là có căn cứ, cần chấp nhận.

[5]. Về trách nhiệm dân sự: Anh C yêu cầu bị cáo bồi thường cho anh toàn bộ số tiền mà bị cáo đã chiếm đoạt là 15.000.000 đồng. Đến nay bị cáo chưa bồi thường được khoản tiền nào cho bị hại. Xét thấy yêu cầu của anh C là có căn cứ, cần chấp nhận buộc Nguyễn Minh T phải bồi thường toàn bộ số tiền 15.000.000 đồng cho anh C.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng không có nghề nghiệp, thu nhập không ổn định, không có tài sản riêng nên Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7]. Đối với anh Kiều Văn T1 là người điều khiển ô tô BKS 88A – 290.48 chở Tâm xuống thành phố Vĩnh Yên để chiếm đoạt tài sản của anh Chung, quá trình điều tra xác định anh T1 không được T bàn bạc trao đổi, không biết gì về việc T chiếm đoạt tài sản của anh C và cũng không được hưởng lợi gì từ số tiền T chiếm đoạt của anh C. Do vậy, CQĐT không đề cập xử lý đối với anh T1 trong vụ án này với vai trò đồng phạm của T về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là phù hợp.

[8]. Về xử lý vật chứng: Đối với xe ô tô BKS 88A – 290.48 là phương tiện anh Kiều Văn T1 chở T xuống thành phố Vĩnh Yên ngày 31/10/2019 để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Quá trình điều tra xác định anh T1 không liên quan đến hành vi Lừa đảo chiếm đoạt tài sản của Nguyễn Minh T nên CQĐT không thu giữ xe ô tô trên.

Đối với 01 giấy nộp tiền do anh C giao nộp, quá trình điều tra, CQĐT chuyển theo hồ sơ vụ án.

Đối với chiếc điện thoại T sử dụng liên lạc với anh C để chiếm đoạt tài sản của anh C, quá trình điều tra xác định chiếc điện thoại trên nhãn hiệu Samsung S10, sau khi sự việc xảy ra T đã làm rơi chiếc điện thoại trên không rõ vị trí, thời gian cụ thể nên CQĐT không thu giữ được chiếc điện thoại trên.

[9]. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Minh T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự trong án hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ nêu trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 174; điểm s khoản 1Điều 51Bộ luật hình sự Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.

Căn cứ Điều 584, 585, 586, 589, 357, 468 Bộ luật dân sự buộc bị cáo phải bồi thường cho anh Nguyễn Thế C tổng số tiền là 15.000.000 đ (mười lăm triệu đồng).

Kể từ ngày anh C có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị cáo không tự nguyện thi hành khoản tiền trên thì hàng tháng còn phải chịu khoản tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự. Người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7 và Điều 9 Luật thi hành án; thời hiệu thi hành án đựơc thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo Nguyễn Minh T phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 750.000 đồng án phí dân sự trong án hình sự Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được giao hoặc niêm yết bản án theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 76/2020/HS-ST ngày 29/05/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:76/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về