Bản án 76/2020/HS-ST ngày 18/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CHÍ LINH, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 76/2020/HS-ST NGÀY 18/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 9 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 87/2020/TLST-HS ngày 27 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 81/2020/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 9 năm 2020, đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Hoàng A, sinh năm 1994 tại thành phố C, tỉnh Hải Dương.

Nơi cư trú: Thôn A, xã L, thành phố C, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn V và bà Nguyễn Thị Th; có vợ là Vũ Thị H (đã ly hôn) và 01 con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 24/6/2020 đến ngày 25/6/2020 thì bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương, có mặt.

2. Dương Minh B, sinh năm 1987 tại huyện L, tỉnh Bắc Giang.

Nơi cư trú: Thôn K, xã V, huyện L, tỉnh Bắc Giang; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương Văn P (ông P được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Nhì) và bà Vũ Thị S; gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ ba; tiền án: Không; có 01 tiền sự: Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 227/QĐ-XPHC ngày 29/11/2019 của Công an thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương về hành vi đánh bạc với hình thức phạt tiền 1.500.000 đồng, ngày 16/12/2019 bị cáo chấp hành xong quyết định; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 24/6/2020 đến ngày 25/6/2020 thì bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương, có mặt.

* Những người làm chứng:

- Ông Lương Văn S, sinh năm 1960

Nơi cư trú: Thôn An M, xã L, thành phố C, tỉnh Hải Dương, vắng mặt.

- Ông Nguyễn Đình T, sinh năm 1988

Nơi cư trú: Khu dân cư N, phường T, thành phố C, tỉnh Hải Dương, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Hoàng A là người nghiện ma túy. Khoảng 21 giờ, ngày 23/6/2020, A đi xe Taxi tới khu vực ngã tư T thuộc khu dân cư H, phường S, thành phố C mua của một người đàn ông không quen biết 01 gói ma túy giá 300.000 đồng với mục đích để bản thân sử dụng. Sau khi mua được ma túy A cất giữ trên người rồi về nhà ngủ. Đến sáng ngày 24/6/2020, A cầm theo gói ma túy nêu trên đi tìm nơi để sử dụng. Khoảng 10 giờ cùng ngày, A đi đến khu vực bãi đỗ xe của đền S thuộc địa phận thôn A, xã L, thành phố C. Tại đây, A gặp Dương Minh B đang đứng trước đầu xe ôtô tải biển kiểm soát 34C – 187.67 đỗ tại rìa đường, đối diện bãi đỗ xe (xe của A Nguyễn Văn Đ trú tại khu dân cư T, phường C, thành phố C là chủ sở hữu, B là người lái xe thuê). A đi lại gần B và bảo “Có chơi đồ không?”, ý A hỏi B có sử dụng ma túy không rồi lấy gói ma túy từ trong túi quần ra cho B xem, B trả lời “Có”. A nói với B “Thế lên xe chơi nhớ”, B nói “Thì lên đi”. Sau đó, A và B lên xe, A ngồi ở ghế phụ của xe còn B ngồi ở ghế lái. A bỏ gói ma túy ra và để trên mặt táp lô của xe, trước vị trí cả hai đang ngồi. Cả hai đang tìm công cụ để sử dụng ma túy thì bị lực lượng Công an thành phố Chí Linh phát hiện. Khi thấy lực lược Công an, B đã ném gói ma túy ra khỏi xe. Lực lượng công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ tại vị trí dưới mặt đất ngay chỗ B đỗ xe ôtô gói ma túy nêu trên.

Tại bản kết luận giám định số 299/KLGĐ - PC09 ngày 26/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương kết luận: Chất rắn (dạng tinh thể) màu trắng niêm phong trong phong bì, gửi đến giám định là ma túy, khối lượng là 0,186 gam, loại Methamphetamine.

Tại bản cáo trạng số 73/CT-VKS-CL ngày 25/8/2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương đã truy tố các bị cáo Nguyễn Hoàng A và Dương Minh B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà: Các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi như nêu trên, thừa nhận việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Chí Linh đối với mình là đúng và xin giảm nhẹ hình phạt. Đại diện Viện kiểm sát luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Hoàng A và Dương Minh B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 38, Điều 58 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng A từ 15 đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 24/6/2020. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 38, Điều 58 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Dương Minh B từ 14 đến 17 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 24/6/2020. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu cho tiêu hủy 0,111 gam ma túy loại Methamphetamine hoàn lại sau giám định. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí, lệ phí; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra, lời khai của những người làm chứng, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng đã thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 10 giờ ngày 24/6/2020 tại khu vực đối diện bãi đỗ xe đền S thuộc thôn A, xã L, thành phố C, tỉnh Hải Dương, Nguyễn Hoàng A và Dương Minh B có hành vi cùng nhau cất giữ trái phép 0,186 gam ma túy, loại Methamphetamime với mục đích cùng sử dụng cho bản thân thì bị lực lượng Công an thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương phát hiện bắt quả tang.

[3] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý Nhà nước về các chất ma túy, gây mất trật tự và ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Các bị cáo đều là những người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật và bị nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của các bị cáo đã cấu thành thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do đó, việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương đối với các bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[4] Đây là vụ án đồng phạm với tính chất giản đơn. Bị cáo A là người mua ma túy rủ bị cáo B cùng cất giữ sử dụng nên giữ vai trò chính, bị cáo B giữ vai trò đồng phạm sau bị cáo A.

[5] Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo đều thành khẩn khai nhận tội nên đều được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật luật hình sự. Ngoài ra, bị cáo B có bố đẻ được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Nhì nên bị cáo được hưởng thêm 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[7] Bị cáo A lần đầu phạm tội, nhân thân tốt. Bị cáo B có 01 tiền sự về hành vi đánh bạc, nay lại thực hiện hành vi phạm tội thể hiện ý thức chấp hành pháp luật kém.

[8] Hội đồng xét xử thấy cần phải áp dụng hình phạt tù cách ly các bị cáo khỏi xã hội một thời gian tương xướng với tính chất hành vi và vai trò của từng bị cáo mới đảm bảo mục đích trừng trị, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

Về hình phạt bổ sung: Xét các bị cáo tàng trữ ma túy để sử dụng không bán lại nhằm kiếm lời nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[9] Về xử lý vật chứng: Đối với số ma túy, loại Methamphetamine đã thu giữ của các bị cáo, sau khi giám định hoàn lại 0,111 gam là vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu cho tiêu hủy theo điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[10] Đối với đối tượng bị cáo B khai tên là Đ đã bán ma túy cho bị cáo phường S, thành phố C, quá trình điều tra chưa xác định được lai lịch nên cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ, có căn cứ xử lý sau nên không xem xét.

[11] A Nguyễn Văn Đ là chủ sở hữu chiếc xe ôtô biển kiểm soát 34C-187.67 không biết việc các bị cáo cất giữ ma túy trên xe nên không đặt ra hình thức xử lý là phù hợp.

[12] Về án phí: Các bị cáo bị kết án nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mứ thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Hoàng A và Dương Minh B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 38, Điều 58 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng A 16 (mười sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 24/6/2020.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 38, Điều 58 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Dương Minh B 13 (mười ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 24/6/2020.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu cho tiêu hủy 0,111 gam ma túy, loại Methamphetamine đựng trong phong bì niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương. (Vật chứng hiện do Chi cục thi hành án dân sự thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương đang quản lý, tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 25/8/2020 giữa Công an thành phố Chí Linh và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương).

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mứ thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc các bị cáo Nguyễn Hoàng A và Dương Minh B mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

148
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 76/2020/HS-ST ngày 18/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:76/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Chí Linh - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về