Bản án 76/2020/HNGĐ-ST ngày 30/09/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG ĐIỀN, TỈNH BÀ RỊA VŨNG TÀU

 BẢN ÁN 76/2020/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

 Ngày 30 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Điền tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 311/2020/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 08 năm 2020 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:66A/2020/QĐXX-ST ngày 28 tháng 8 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 60/2020/QĐST-HNGĐ ngày 14 tháng 9 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Phạm Thị M - sinh năm 1991. (Vắng mặt; bà M có đơn xin xét xử vắng mặt) Địa chỉ: tổ 12 ấp P, xã P, huyện L, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu.

- Bị đơn: Ông Lê Tuấn A - sinh năm 1991. (Vắng mặt) Địa chỉ: tổ 12 ấp P, xã P, huyện L, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, tại bản khai nguyên đơn bà Phạm Thị M trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Phạm Thị M và ông Lê Tuấn A tự nguyện chung sống vợ chồng với nhau từ năm 2011, có đăng ký kết hôn vào năm 2014, có tổ chức đám cưới, trong quá trình chung sống vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, và do vấn đề làm ăn, tiền bạc trong gia đình dẫn đến vợ chồng không có tiếng nói chung. A cũng thường xuyên vắng nhà, không quan tâm chăm sóc gia đình vợ con, bà M đã khuyên can và chịu đựng vì con cái nhưng A vẫn không thay đổi, nên vợ chồng hay cãi nhau. Nay bà M không còn tình cảm, không còn quan tâm và không thể chung sống với A được nữa nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho được ly hôn với A.

- Về con chung: Bà Phạm Thị M và ông Lê Tuấn A có 02 người con chung là Lê Tuấn K, sinh ngày 12/5/2012 và Lê Tuấn K1, sinh ngày 09/11/2013, bà M yêu cầu được nuôi dưỡng cả 02 con chung, không yêu cầu A cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Bà M không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung và nợ chung.

Đối với bị đơn ông Lê Tuấn A:

Tại biên bản xác minh ngày 08-8-2020 của Tòa án, kết quả xác minh ông Lê Tuấn A có hộ khẩu thường trú tại tổ 12 ấp Phước Thọ, xã Phước Hưng, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Hiện nay do đi làm xa nên A thường chỉ có ở nhà vào cuối tuần. Địa phương không rõ về nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng giữa bà M và A.

Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử theo đúng trình tự thủ tục tố tụng dân sự cho A tại địa chỉ A đang sing sống, nhưng A không có mặt theo thông báo của Tòa án. A không có văn bản ghi ý kiến phản hồi đối với yêu cầu khởi kiện của bà M.

Tại phiên tòa kiểm sát viên phát biểu ý kiến:

- Về tố tụng: Trong quá trình thụ lý, xét xử vụ án thẩm phán, Hội đồng xét xử, nguyên đơn đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng, chưa chấp hành theo giấy triệu tập của Tòa án, vắng mặt tại các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, vắng mặt tại phiên tòa nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt A. Bà M vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt bà M.

- Về nội dung:

Về hôn nhân: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Phạm Thị M, cho bà M được ly hôn với A.

Về con chung: Giao cháu Lê Tuấn K sinh ngày 12-5-2012 và cháu Lê Tuấn K1 sinh ngày 09-11-2013 cho bà Phạm Thị M được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi các con đủ 18 tuổi hoặc có thay đổi theo qui định của pháp luật. Ông Lê Tuấn A không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Căn cứ theo đơn khởi kiện của bà Phạm Thị M và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án thể hiện quan hệ pháp luật tranh chấp giữa các đương sự là tranh chấp về ly hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Bị đơn ông Lê Tuấn A có địa chỉ xã Phước Hưng, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Tòa án đã triệu tập hợp lệ ông Lê Tuấn A đến phiên tòa nhưng A vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 2 không có lý do; căn cứ vào khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt A theo quy định của pháp luật. Bà Phạm Thị M vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt bà M theo qui định của pháp luật.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Nhận thấy, bà Phạm Thị M và ông Lê Tuấn A chung sống vợ chồng với nhau vào năm 2011 và có đăng ký kết hôn vào năm 2014 tại Ủy ban nhân dân xã Phước Hưng, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, hôn nhân dựa trên cơ sở tự nguyện không ai ép buộc nên theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân gia đình quan hệ hôn nhân giữa bà M và A là hôn nhân hợp pháp. Theo lời trình bày của bà M, nguyên nhân mâu thuẫn giữa bà M và A là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, và do mâu thuẫn trong vấn đề làm ăn, tiền bạc trong gia đình dẫn đến vợ chồng không có tiếng nói chung. A cũng thường xuyên vắng nhà, không quan tâm chăm sóc gia đình vợ con, bà M đã khuyên can và chịu đựng vì con cái nhưng A vẫn không thay đổi, nên vợ chồng hay cãi vã nhau.

Đối với ông Lê Tuấn A, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho A tham gia phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, tuy nhiên A vắng mặt không có lý do, có thái độ trốn tránh, không có thiện chí hoà giải để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Đồng thời A cũng không có văn bản trình bày ý kiến phản hồi của mình cho Tòa án mặc dù vẫn sinh sống tại địa phương chứng tỏ A đã bỏ mặc không quan tâm gì đến quan hệ hôn nhân giữa A và bà M.

Từ các căn cứ trên xét thấy mâu thuẫn gia đình giữa bà Phạm Thị M và ông Lê Tuấn A là không hàn gắn được, tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, yêu cầu ly hôn của bà M là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận cho bà M được ly hôn với A.

[4] Về nuôi con chung và cấp dưỡng: Bà Phạm Thị M và ông Lê Tuấn A có 02 con chung là Lê Tuấn K, sinh ngày 12/5/2012 và Lê Tuấn K1, sinh ngày 09/11/2013. Xét thấy hiện bà M đang sinh sống cùng cháu K và cháu K1, A thường xuyên đi làm xa nhà, A cũng không có ý kiến gì về con chung. Để tránh cuộc sống hiện tại của các cháu bị xáo trộn, không làm ảnh hưởng đến tâm sinh lý của các cháu và cũng phù hợp với nguyện vọng của cháu K và bà M nên Hội đồng xét xử thấy cần giao cháu K và cháu K1 cho bà M được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi các con đủ 18 tuổi hoặc có thay đổi theo qui định của pháp luật.

Về cấp dưỡng: Bà Phạm Thị M không yêu cầu A cấp dưỡng nuôi con, A cũng không có ý kiến gì về việc cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu về tài sản chung và nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 về án phí và lệ phí Tòa án, của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Bà Phạm Thị M phải nộp 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm, ông Lê Tuấn A không phải nộp án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Áp dụng các Điều 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình.

Áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của bà Phạm Thị M; bà Phạm Thị M được ly hôn với ông Lê Tuấn A.

2. Về con chung: Giao cháu Lê Tuấn K, sinh ngày 12/5/2012 và Lê Tuấn K1, sinh ngày 09/11/2013 cho bà Phạm Thị M được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi các con đủ 18 tuổi hoặc có thay đổi theo qui định của pháp luật. A không phải cấp dưỡng nuôi con.

Ông Lê Tuấn A có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở, nhưng không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: Bà Phạm Thị M phải nộp 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số: 0004076, ngày 10 tháng 08 năm 2020, tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Điền; bà M đã nộp đủ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Ông Lê Tuấn A không phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Án sơ thẩm xét xử công khai, báo cho bà Phạm Thị M và ông Lê Tuấn A biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã nơi cư trú, để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 76/2020/HNGĐ-ST ngày 30/09/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:76/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Điền - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về