Bản án 76/2020/HNGĐ-ST ngày 29/09/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 76/2020/HNGĐ-ST NGÀY 29/09/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 29 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 188/2020/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 7 năm 2020, về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 83/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 8 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 54/2020/QĐST-HNGĐ, ngày 11 tháng 9 năm 2020, giữa:

- Nguyên đơn: Ông Phan Quốc Đ, sinh năm: 1983.

Cư trú tại: Số nhà 105/2 ấp Thanh Bình 2, xã Đ, huyện C, tỉnh L.

- Bị đơn: Lê Thị Tr, sinh năm: 1986.

Cư trú tại: Số nhà 105/2 ấp Thanh Bình 2, xã Đ, huyện C, tỉnh L.

(Nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 22 tháng 6 năm 2020 và trong quá trình xét xử, ông Phan Quốc Đ là nguyên đơn trình bày: Ông và bà Lê Thị Tr tổ chức lễ cưới năm 2003, có đăng ký kết hôn vào ngày 29/3/2006, tại Uỷ ban nhân dân xã Đ, huyện C, tỉnh L.

Sau ngày cưới vợ chồng sống hòa thuận hạnh phúc được mười một năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống nên thường xuyên cải vã nhau. Hai người không còn chung sống với nhau từ năm 2014 đến nay. Nay tình cảm vợ chồng không còn, mục đích của hôn nhân không đạt được nên ông xin được ly hôn với bà Lê Thị Tr.

Về nuôi con chung: Ông và bà Tr có với nhau hai người con chung tên Phan Minh Đ, sinh ngày 17/01/2004 và Phan Minh Th, sinh ngày 01/12/2005, hiện nay bà Tr đang trực tiếp nuôi con. Khi ly hôn ông yêu cầu để bà Tr được tiếp tục giữ nuôi hai người con chung, ông không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên không yêu cầu Toà án giải quyết.

Bà Lê Thị Tr là bị đơn có hộ khẩu thường trú tại số nhà 105/2 ấp Thanh Bình 2, xã Đ, huyện C, tỉnh L, Tòa án nhiều lần niêm yết hợp lệ các thông báo phiên hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử và quyết định hoãn phiên tòa tại nơi hộ khẩu thường trú của bà Tr nhưng bà Tr vắng mặt không lý do, do đó cần áp dụng các Điều 227 và 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bà Lê Thị Tr.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Ông Phan Quốc Đxin ly hôn với bà Lê Thị Tr, việc tranh chấp được quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, nên Tòa án nhân dân huyện Châu Thành thụ lý, giải quyết.

[2] Ông Phan Quốc Đ và bà Lê Thị Tr được tổ chức lễ cưới năm 2003, có đăng ký kết hôn vào ngày 29/3/2006, tại Uỷ ban nhân dân xã Đ, huyện C, tỉnh L, nên được pháp luật công nhận là hôn nhân hợp pháp.

[3] Theo ông Phan Quốc Đ sau ngày cưới vợ chồng sống hòa thuận hạnh phúc được mười một năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống nên thường xuyên cải vã nhau. Hai người không còn chung sống với nhau từ năm 2014 đến nay. Nay tình cảm vợ chồng không còn nên ông Đ xin ly hôn với bà Tr. Đối với bà Lê Thị Tr có đăng ký hộ khẩu thường trú tại số nhà 105/2 ấp Thanh Bình 2, xã Đ, huyện C, tỉnh L, Tòa án nhiều lần niêm yết hợp lệ các thông báo phiên hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử và quyết định hoãn phiên tòa tại nơi đăng ký hộ khẩu thường trú của bà Tr nhưng bà Tr vắng mặt không lý do, đã thể hiện ý thức không hợp tác của bà Tr. Xét thấy giữa hai đương sự đã phát sinh mâu thuẫn, nhưng hai đương sự không có thiện chí hàn gắn lại, đã vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần cho ông Phan Quốc Đ được ly hôn với bà Lê Thị Tr, theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4] Về nuôi con chung: Nguyên đơn khai trình hai đương sự có với nhau hai người con chung tên Phan Minh Đ, sinh ngày 17/01/2004 và Phan Minh Th, sinh ngày 01/12/2005, hiện nay bà Tr đang nuôi con. Khi ly hôn ông Đ yêu cầu để bà Tr tiếp tục giữ nuôi hai người con chung, ông không phải cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy hiện nay bà Tr không hợp tác, Toà án đã có văn bản yêu cầu ông Đ, bà Tr đưa hai con chung của các đương sự đến Toà án để trình bày nguyện vọng của con chung, nhưng hai người con ông Đ, bà Tr không đến, do đó để ổn định cuộc sống của con chung của hai đương sự cần giữ nguyên tình trạng nuôi con như hiện nay, khi ly hôn bà Tr được tiếp tục giữ nuôi hai người con chung, ông Đ không phải cấp dưỡng nuôi con. Ông Phan Quốc Đ có quyền đến thăm nom chăm sóc con chung không ai được quyền ngăn cản. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con chung các đương sự được quyền xin thay đổi tình trạng nuôi con hoặc việc cấp dưỡng nuôi con.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Nguyên đơn khai trình không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét.

[6] Về án phí: Ông Phan Quốc Đ phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, theo quy định tại Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, 35, 39, 227, 228, 271 và 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Căn cứ vào Điều 56, 81, 82, 83 và 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Căn cứ vào Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho ông Phan Quốc Đ được ly hôn với bà Lê Thị Tr.

2. Về nuôi con chung: Khi ly hôn bà Lê Thị Tr được tiếp tục giữ nuôi hai người con chung tên Phan Minh Đ, sinh ngày 17/01/2004 và Phan Minh Th, sinh ngày 01/12/2005, đến tuổi trưởng thành. Ông Phan Quốc Đ không phải cấp dưỡng nuôi con; được quyền đến thăm nom chăm sóc con chung không ai được quyền ngăn cản. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con chung các đương sự được quyền xin thay đổi tình trạng nuôi con hoặc việc cấp dưỡng nuôi con.

3. Về án phí: Ông Phan Quốc Đ phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Cho chuyển số tiền tạm ứng án phí ông Đ đã nộp là 300.000 đồng sang khoản án phí phải thi hành, theo biên lai thu số 0000530 ngày 20 tháng 7 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày Toà án tống đạt hợp lệ bản án, để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Long An xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

139
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 76/2020/HNGĐ-ST ngày 29/09/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:76/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về