Bản án 76/2019/HS-ST ngày 18/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ KONTUM, TỈNH KONTUM

BẢN ÁN 76/2019/HS-ST NGÀY 18/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 18/11/2019 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 69/2019/TLST-HS ngày 09/10/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 75/2019/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Mai Cao Ph (tên gọi khác: Không), sinh năm 1973 tại Bình Định; Nơi cư trú: Tổ 9, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Gia Lai; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 07/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên chúa giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Mai S (đã chết) và bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1930; bị cáo chưa có vợ, con; tiền sự: không.

Tiền án: 04.

Ngày 05/5/1993 bị Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng xử phạt 14 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành án tại Trại giam Gia Trung, ngày 23/01/2006 chấp hành xong án phạt tù trở về địa phương. Ngày 26/10/2006 bị Tòa án nhân dân thành phố Plei Ku, tỉnh Gia Lai bị xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành án tại Trại giam Gia Trung, ngày 05/4/2008 chấp hành án xong án phạt tù trở về địa phương.

Ngày 05/3/2009 bị Tòa án nhân dân thành phố Plei Ku, tỉnh Gia Lai bị xử phạt 48 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành án tại Trại giam Gia Trung, ngày 28/8/2012 chấp hành án xong án phạt tù trở về địa phương.

Ngày 13/6/2013 bị Tòa án nhân dân thành phố Plei Ku, tỉnh Gia Lai bị xử phạt 06 năm 06 tháng tù tù về tội “Trộm cắp tài sản” và “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, chấp hành án tại Trại giam Gia Trung, ngày 28/2/2019 chấp hành án xong án phạt tù trở về địa phương.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/6/2019 đến nay có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại:

1. Ông Nguyễn Văn Kh, sinh năm 1968.

Trú tại: Trú tại 370 Ph, phường Ng, thành phố K, tỉnh Kon Tum. Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

2. Anh Mai Thế L, sinh năm 1976.

Trú tại: Số 226 Tr, thành phố K, tỉnh Kon Tum.Vắng mặt.

3. Anh Tạ Văn T, sinh năm 1976.

Trú tại: 62A Ng, thành phố K, tỉnh Kon Tum.Vắng mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Chị Trần Thị Mộng L (Tên gọi khác: Tr), sinh năm 1984.

Trú tại: Số 08 H, thành phố K, tỉnh Kon Tum. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

2. Anh Nguyễn Văn D, sinh năm 1973.

Trú tại: Hẻm 141 V, thành phố K, tỉnh Kon Tum.Vắng mặt.

- Người làm chứng:

1. Ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1967.

Trú tại: Số 226 Tr, thành phố K, tỉnh Kon Tum.Vắng mặt.

2. Bà Lê Thị Xuân Th, sinh năm 1968.

Trú tại: Trú tại: 370 Ph, phường Ng, thành phố K, tỉnh Kon Tum. Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

3. Anh Nguyễn Xuân Kh, sinh năm 1991.

Trú tại: 370 Ph, phường Ng, thành phố K, tỉnh Kon Tum. Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong thời gian từ ngày 09/6/2019 đến ngày 15/6/2019 bị cáo Mai Cao Ph đã thực hiện ba vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Kon Tum, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Vào khoảng 11 giờ ngày 09/6/2019, Mai Cao Ph đi bộ trên tuyến đường Phan Đình Phùng, thành phố Kon Tum tìm nhà dân nào sơ hở để trộm cắp tài sản. Khi đến trước số nhà 370 Phan Đình Phùng, Phường Ngô Mây, Thành phố Kon Tum thì thấy nhà ông Nguyễn Văn Kh mở cửa, không có người nên Ph vào phòng khách lấy trộm 01 (một) ví da nam màu đen bên trong có 7.500.000 đồng (bảy triệu năm trăm nghìn đồng) tiền Việt Nam và một số giấy tờ; 01 (Một) Ipad màu đen. Đối với Ipad, Ph đem bán cho một người đi đường (Không rõ nhân thân lai lịch) tại khu vực cầu ĐăkBla, thành phố Kon Tum với giá 1.000.000 đồng (Một triệu đồng). Toàn bộ số tiền lấy trộm được và tiền bán chiếc Ipad, Ph đã tiêu xài cá nhân hết. Riêng chiếc ví da Ph để lại sử dụng và vứt hết giấy tờ bên trong. Cơ quan CSĐT Công an thành phố Kon Tum đã thu giữ được chiếc ví da nói trên.

Tại kết luận định giá số 60/ĐG-TS ngày 16/7/2019 của Hội đồng ĐG-TS, kết luận:

+ 01 (Một) ví da nam màu đen, nhãn hiệu Boss giá trị còn lại là 2.937.000 đồng (Hai triệu chín trăm ba mươi bảy nghìn đồng)

+ 01 (Một) Ipad 4 màu đen giá trị còn lại là 11.493.000 đồng (Mười một triệu bốn trăm chín mươi ba nghìn đồng);

Tng giá trị tài sản bị mất là: 2.937.000 đồng + 11.493.000 đồng = 14.430.000 đồng (Mười bốn triệu bốn trăm ba mươi nghìn đồng) và 7.500.000 đồng tiền trong ví = 21.930.000 đồng (Hai mươi mốt triệu chín trăm ba mươi nghìn đồng). Vụ thứ hai: Vào khoảng 08 giờ sáng ngày 12/6/2019, Mai Cao Ph điều khiển xe mô tô BKS 82B1-164.90 kiểu dáng Wave màu trắng- đen (mượn của chị Trần Thị Mộng L; xe này chị L mượn của anh rể là Nguyễn Văn D) mang theo túi xách màu đen đi lòng vòng trên địa bàn thành phố Kon Tum tìm nhà dân nào sơ hở để trộm cắp tài sản. Khi đi đến phòng trọ số 2 của anh Mai Thế L ở số 226 Tr, phường C, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum, thấy anh L đang nằm ngủ, cửa phòng trọ mở xung quanh không có người nên Ph đã vào lấy trộm 01 (một) laptop màu đen, nhãn hiệu Dell; 01 (Một) điện thoại di động màn hình cảm ứng màu đen, nhãn hiệu Iphone 6. Ph bỏ tất cả tài sản trộm được vào túi xách đã chuẩn bị trước đó rồi điều khiển xe mô tô tẩu thoát. Ph đem số tài sản trộm cắp có được bán cho một thanh niên (Không rõ nhân thân lai lịch) tại ngã ba Hoa Lư, thành phố Plei Ku, tỉnh Gia Lai với số tiền 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng). Số tiền này Phước tiêu xài cá nhân hết. Hiện cơ qua CSĐT Công an thành phố Kon Tum chưa thu giữ được số tài sản trên.

Tại bản kết luận định giá số 61/ĐG-TS ngày 16/72019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND thành phố Kon Tum kết luận:

+ Giá trị 01 chiếc điện thoại đi động màn hình cảm ứng, nhãn hiệu Iphone 6 màu đen giá trị còn lại là 4.195.000 đồng (Bốn triệu một trăm chín mươi năm nghìn đồng)

+ 01 (một) máy tính xách tay hiệu Dell, màu đen giá trị còn lại là 8.535.000 đồng (Tám triệu năm trăm ba mươi lăm nghìn đồng).

Tng giá trị tài sản bị mất là: 4.195.000+8.535.000 =12.730.000 đồng (Mười hai triệu bảy trăm ba mươi nghìn đồng).

Vụ thứ 3: Vào khoảng 07 giờ ngày 15/6/2019, Mai Cao Ph tiếp tục mượn xe mô tô BKS 82B1-164.90 của chị Trần Thị Mộng L đi kiếm phòng trọ để thuê ở. Khi đến dãy phòng trọ số 62A Ng, phường D, Thành phố K, Ph để xe ở ngoài đường, đi bộ vào trong thì phát hiện phòng của anh Tạ Văn T mở cửa, không có người. Ph đi vào phòng lục trong túi quần để ở tấm nệm dưới nền nhà và lấy trộm số tiền 2.600.000 đồng (Hai triệu sáu trăm nghìn đồng) rồi ra xe bỏ đi. Đến 12 giờ ngày 15/6/2019 Ph bị phát hiện, bắt giữ và thu giữ đồ vật có liên quan.

Về vật chứng của vụ án: Cơ quan CSĐT Công an thành phố Kon Tum đã trả cho chủ sở hữu: Ông Nguyễn Văn Kh 01 ví da nam màu đen; trả cho anh Tạ Văn T số tiền 2.600.000 đồng; trả cho chị Trần Thị Mộng L số tiền 400.000 đồng; trả cho anh Nguyễn Văn D 01 Giấy đăng ký xe mô tô BKS 82B1 - 164.90 mang tên Nguyễn Văn D và 01 xe mô tô kiểu dáng Wave màu trắng-đen BKS 82B1 – 164.90.

Đi với 01 điện thoại di động Nokia, 01 Chứng minh nhân dân và 01 Giấy phép lái xe mô tô mang tên Mai Cao Ph, 01 Túi xách màu đen chuyển đến Tòa án nhân dân thành phố Kon Tum để xử lý theo quy định của pháp luật.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại anh Mai Thế L yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 12.500.000 đồng. Ông Nguyễn Văn Kh và anh Tạ Văn T không yêu cầu bị cáo bồi thường gì.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận đã có hành vi trộm cắp tài sản như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Kon Tum bổ sung quan điểm truy tố bị cáo thêm điểm b khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Mai Cao Ph phạm tội “Trộm cắp tài sản”; áp dụng điểm b, g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Mai Cao Ph từ 36 tháng đến 40 tháng tù.

Về xử lý vật chứng của vụ án: Cơ quan CSĐT Công an thành phố Kon Tum xử lý vật chứng trả lại tài sản cho chủ sở hữu ông Nguyễn Văn Kh, anh Tạ Văn T, chị Trần Thị Mộng L và anh Nguyễn Văn D là hợp pháp, nên không đề cập. Đối với chiếc điện thoại di động Nokia, giấy Chứng minh nhân dân và giấy phép lái xe mô tô mang tên Mai Cao Ph là của bị cáo, không phải là công cụ phạm tội, nên trả lại cho bị cáo Mai Cao Ph. Đối với 01 Túi xách màu đen là công cụ phạm tội nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì, nhất trí với lời luận tội của Kiểm sát viên.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Kon Tum, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Kon Tum, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2]. Về hành vi truy tố của các bị cáo:

Tn cơ sở lời khai của bị cáo và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã xác định: Trong thời gian từ ngày 09/6/2019 đến ngày 15/6/2019, Mai Cao Ph đã có hành vi lén lút, trộm cắp tài sản 03 lần ở địa bàn thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum. Cụ thể: Ngày 09/6/2019, Mai Cao Ph đã trộm một Ipad 4 màu đen và một ví da nam màu đen trong ví có 7.500.000 đồng tiền Việt Nam của ông Nguyễn Văn Kh. Tổng tài sản Mai Cao Ph trộm của ông Nguyễn Văn Kh có giá trị 21.930.000 đồng (Hai mươi mốt triệu chín trăm ba mươi nghìn đồng). Ngày 12/6/2019, Mai Cao Ph trộm cắp tài sản của anh Mai Thế Lmột chiếc điện thoại đi động màn hình cảm ứng, nhãn hiệu Iphone 6 màu đen và một máy tính xách tay hiệu Dell. Tổng tài sản Mai Cao Ph trộm của anh Mai Thế L có giá trị là 12.730.000 đồng (Mười hai triệu bảy trăm ba mươi nghìn đồng). Đến khoảng 07 giờ sáng ngày 15/6/2019, Mai Cao Ph tiếp tục trộm cắp của anh Tạ Văn T tiền Việt Nam là 2.600.000 đồng (Hai triệu sáu trăm nghìn đồng). Tổng giá trị tài sản Mai Cao Ph trộm cắp của 03 người là 37.260.000 đồng (Ba mươi bảy triệu hai trăm sáu mươi ngìn đồng).

Bị cáo Mai Cao Ph đã có 04 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích, sau khi chấp hành xong hành phạt tù vào ngày 28/2/2019 bị cáo lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo không có nghề nghiệp gì và lấy việc trộm cắp tài sản làm nguồn sống chính. Tại bản án số 80/2013/HSST ngày 13/6/2013 của Tòa án nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai đã xét xử bị cáo Mai Cao Ph với tình tiết định khung “Có tính chất chuyên nghiệp” “Tái phạm nguy hiểm” nên lần phạm tội này bị cáo cũng phạm vào tình tiết định khung “Có tính chất chuyên nghiệp” “Tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm b, g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân thành phố kon Tum, tỉnh Kon Tum truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo tình tiết định khung “Có tính chất chuyên nghiệp” “Tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm b, g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự là hoàn toàn có căn cứ pháp luật.

[3]. Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội:

Bị cáo Mai Cao Ph đã 05 lần chấp hành hình phạt tù, nhưng bị cáo không chịu tu dưỡng, rèn luyện bản thân. Sau khi chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 28/2/2019 đến tháng 6/2019 chỉ trong thời gian ngắn bị cáo đã thực hiện 03 lần hành vi trộm cắp tài sản. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu của công dân được pháp luật bảo vệ. Gây dư luận và ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an trên địa bàn thành phố Kon Tum; Thể hiện ý thức coi thường và bất chấp pháp luật. Do đó cần phải áp dụng bản án nghiêm khắc đối với các bị cáo để có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung.

[4]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Mai Cao Ph phải chịu tình tiết tăng nặng “ Phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về nhân thân: Bị cáo đã có 04 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” và “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục phạm tội nên xác định bị cáo là người có nhân thân xấu tại địa phương.

Sau khi xem xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới đủ điều kiện để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội, biết tuân thủ pháp luật.

Đi với những người mua tài sản do bị cáo trộm cắp được tại khu vực cầu ĐăkBLa, thành phố Kon Tum và tại ngã ba Hoa Lư, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai. Hiện nay, chưa xác minh được nhân thân lai lịch nên sẽ tiếp tục điều tra, xác minh và xử lý sau.

Quá trình trộm cắp tài sản bị cáo Mai Cao Ph đã sử dụng xe mô tô BKS 82B1- 164.90 mượn của chị Trần Thị Mộng L làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên, trước khi cho Phước mượn xe chị L không biết Ph sử dụng phương tiện trên để trộm cắp tài sản nên Cơ quan CSĐT Công an thành phố Kon Tum không đưa ra hình thức xử lý đối với chị Trần Thị mộng L là có cơ sở, nên Hội đồng xét xử không đề cập.

[6] Về các vấn đề khác:

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại anh Mai Thế L yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 12.500.000 đồng. Xét thấy, bị cáo chưa bồi thường số tiền trộm cắp tài sản cho anh L nên yêu cầu bồi thường của anh Mai Thế L là có căn cứ để chấp nhận.

Ông Nguyễn Văn Kh và anh Tạ Văn T không có yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự, nên Hội đồng xét xử không đề cập.

Về xử lý vật chứng: Cơ quan CSĐT Công an thành phố Kon Tum đã trả cho ông Nguyễn Văn Kh 01 ví da nam màu đen; trả cho anh Tạ Văn T số tiền 2.600.000 đồng; trả cho chị Trần Thị Mộng L số tiền 400.000 đồng; trả cho anh Nguyễn Văn D 01 Giấy đăng ký xe mô tô BKS 82B1 - 164.90 mang tên Nguyễn Văn D và 01 xe mô tô kiểu dáng Wave màu trắng-đen BKS 82B1 – 164.90 của anh Nguyễn Văn D là phù hợp. Hội đồng xét xử không đề cập đến.

Đi với 01 điện thoại di động Nokia, 01 giấy chứng minh nhân dân và 01 Giấy phép lái xe mô tô mang tên Mai Cao Ph không phải là công cụ phạm phạm nên xét cần phải trả lại cho bị cáo Mai Cao Ph.

Đi với 01 túi xách màu đen là công cụ phạm tội không có giá trị sử dụng nên tịch thu và tiêu hủy.

Về án phí sơ thẩm: Bị cáo Mai Cao Ph phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b, g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Mai Cao Ph (tên gọi khác: Không) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Mai Cao Ph 40 (Bốn mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam ngày 15/6/2019.

2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 584, Điều 586, Điều 589 Bộ luật dân sự năm 2015.

Buộc bị cáo Mai Cao Ph bồi thường cho anh Mai Thế L số tiền 12.500.000 đồng (Mười hai triệu năm trăm nghìn đồng).

Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

3.Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Trả lại cho bị cáo Mai Cao Ph 01 điện thoại di động Nokia, 01 giấy chứng minh nhân dân và 01 Giấy phép lái xe mô tô mang tên Mai Cao Ph. Tịch thu tiêu hủy 01 túi xách màu đen, theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 10 tháng 10 năm 2019 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra công an thành phố Kon Tum và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Kon Tum.

4. Về án phí sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án Buộc bị cáo Mai Cao Ph phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 625.000 đồng (Sáu trăm hai mươi lăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo, Bị hại, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với người vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo khoản 2 Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

274
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 76/2019/HS-ST ngày 18/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:76/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Kon Tum - Kon Tum
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về