Bản án 76/2019/HSST ngày 16/04/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TP. BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐĂK LĂK

BẢN ÁN 76/2019/HSST NGÀY 16/04/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 56/2019/HSST ngày 15 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 75/2019/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 3 năm 2019, đối với:

Bị cáo LÊ VĂN T.

Sinh ngày: 12/12/1990; tại: Ninh Thuận.

Nơi cư trú: Thôn P, xã S, huyện N, tỉnh Ninh Thuận; nghề nghiệp: Nhân viên quán Bar; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; con ông Hoàng Quang H (đã chết) và con bà Lê Thị H, sinh năm 1947; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt quả tang và tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/11/2018. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Buôn Ma Thuột; có mặt tại phiên tòa.

- Người chứng kiến: Ông Nguyễn Quang H. Sinh năm 1967.

Trú tại: Tổ dân phố X, phường T, thành phố B, tỉnh Đăk Lăk; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo Lê Văn T bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Lê Văn T làm nhân viên phục vụ tại quán bar G9, địa chỉ: 01 Tôn Đức Thắng, phường Tân Lợi, thành phố Buôn Ma Thuột. Vào khoảng 23 giờ 00 ngày 25/11/2018, trong lúc T đang làm tại bar G9 thì một người phụ nữ tên D (chưa rõ nhân thân, lai lịch) sử dụng số điện thoại 0931.626.253 gọi vào số điện thoại 0962.880.138 của T, D hỏi “anh lấy dùm em năm viên kẹo” tức là 5 viên ma túy tổng hợp “Thuốc Lắc” thì T trả lời “đợi anh mười lăm phút có gì anh gọi lại”. Sau đó T gọi điện thoại vào số 0942.093.435 cho một nam giới tên X (chưa rõ nhân thân lai lịch), T nói “có kẹo không để tôi năm con ?” thì X trả lời “ok, đợi mười lăm phút tôi alo”. T đứng đợi trước bar G9 khoảng 05 phút thì X đi xe taxi đến bar G9 gặp T, X nói “330.000 đ/1 con”, T đưa cho X số tiền 1.650.000 đồng, X đưa cho T 01 gói nylon đựng 05 viên Thuốc Lắc dạng nén, màu xanh lá cây. T cất vào túi áo khoác bên trái và liên lạc nói với D giá 350.000 đồng/viên Thuốc Lắc. Khi T chưa kịp bán cho D thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk phát hiện, bắt quả tang, thu giữ tại túi áo khoác của T 01 gói nylon đựng 05 viên nén màu xanh và 1,5 viên nén màu nâu (T khai nhận 05 viên nén màu xanh là ma túy loại thuốc lắc mua để bán lại kiếm lời còn T không biết nguồn gốc của 1,5 viên nén màu nâu). Cơ quan điều tra đã tiến hành niêm phong theo quy định pháp luật 05 viên nén màu xanh vào phong bì ký hiệu M1 và 1,5 viên nén màu nâu vào phong bì ký hiệu M2.

Đồ vật, tài liệu bị tạm giữ: 01 điện thoại di động hiệu Oppo, màu đen gắn sim số 0962.880.138; số tiền 1.700.000 đồng (Một triệu bảy trăm ngàn đồng).

Tại bản kết luận giám định số: 1057/GĐMT-PC09 ngày 27/11/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận:

Phong bì M1: 05 viên nén màu xanh, trên mặt đều in chữ EA7 được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 1,9805 gam, loại MDMA.

Phong bì M2: 01 viên nén và 01 nửa viên nén màu nâu được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,4764 gam, loại Ketamine.

Hoàn lại đối tượng giám định: Phong bì M1: 05 (năm) viên nén màu xanh còn lại sau giám định có khối lượng 1,6422 gam MDMA; Phong bì M2: 01 (viên) nén màu nâu và một nửa viên nén màu nâu còn lại sau giám định có khối lượng 0,3311 gam Ketamine và toàn bộ bao gói đựng mẫu vật gửi giám định ban đầu.

Tại bản cáo trạng số 83/CT-VKS ngày 14 tháng 3 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột đã truy tố bị cáo Lê Văn T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Lê Văn T như bản cáo trạng. Sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát đề nghị:

Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Lê Văn T từ 03 (ba) năm đến 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù.

- Các biện pháp tư pháp: Áp dụng khoản 1 Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Tịch thu, tiêu hủy mẫu vật còn lại sau giám định là 05 (năm) viên nén màu xanh có khối lượng 1,6422 gam MDMA; 01 (viên) nén màu nâu và một nửa viên nén màu nâu có khối lượng 0,3311 gam Ketamine được niêm phong tại gói số 1057/GĐMT-PC09 ngày 27/11/2018), là tang vật của vụ án.

+ Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Oppo, màu đen, kèm theo sim số 0962.880.138, đây là tài sản của bị cáo dùng làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội.

+ Trả lại cho bị cáo Lê Văn T số tiền 1.700.000 đồng (Một triệu bảy trăm ngàn đồng) vì không liên quan đến hành vi phạm tội.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ diễn biến hành vi phạm tội như trong bản Cáo trạng; bị cáo không tranh luận, bào chữa gì, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, Kiểm sát viên trong qúa trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối chiếu lời khai của bị cáo Lê Văn T tại phiên tòa hôm nay là phù hợp với lời khai của bị cáo, người chứng kiến trong quá trình điều tra, biên bản phạm tội quả tang, vật chứng đã thu được; phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án về thời gian, địa điểm, diễn biến hành vi bị cáo đã thực hiện nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 23 giờ 00 ngày 25/11/2018, tại trước quán bar G9, địa chỉ: 01 Tôn Đức Thắng, phường Tân Lợi, thành phố Buôn Ma Thuột, bị cáo Lê Văn T đã thực hiện hành vi mua ma túy và đang đem đi bán lấy tiền lời thì thì bị phát hiện, bắt quả tang, thu giữ; khối lượng là 1,9805 gam ma túy loại MDMA và 0,4764 gam loại Ketamine.

Do đó, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột đã truy tố bị cáo Lê Văn T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Điều 251 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.”

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý nhà nước về ma túy. Ma túy là chất gây nghiện, có tác hại rất lớn và ảnh hưởng rất xấu đến sức khỏe của con người, đồng thời cũng là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và tội phạm khác; là nỗi nhức nhối của toàn xã hội.

Khi phạm tội, bị cáo có đầy đủ khả năng nhận thức, điều khiển hành vi, bị cáo biết và buộc phải biết việc mua bán trái phép chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào đều là vi phạm pháp luật hình sự và sẽ bị pháp luật trừng trị. Nhưng do ý thức coi thường pháp luật, muốn có tiền tiêu xài nhưng lười lao động, ham muốn thu lợi bất chính nên bị cáo đã bất chấp pháp luật để thực hiện hành vi phạm tội, do đó cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tác dụng trừng trị, cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội; đồng thời đủ sức răn đe, phòng ngừa chung trong xã hội trong công cuộc phòng, chống ma túy.

Song, xét về nhân thân, bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự; tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo và thật sự ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cần áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Vì vậy, xét mức hình phạt mà Đại diện Viện sát đề nghị xử phạt đối với bị cáo T, Hội đồng xử xét thấy cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt cũng đủ tác dụng giaùo duïc, caûi taïo riêng đối với bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

Đối với đối tượng tên D (chưa rõ nhân thân, lai lịch) có số điện thoại 0931626253 là người hỏi mua ma túy của T và đối tượng tên X có số điện thoại 0932880138 là đối tượng bán ma túy cho T, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh lai lịch các đối tượng nêu trên và có Công văn xác minh gửi Công ty viễn thông Đắk Lắk đề nghị cung cấp thông tin nhưng hiện chưa có kết quả, nên Cơ quan điều tra tách ra xử lý sau, là phù hợp.

[3] Các biện pháp tư pháp: Áp dụng khoản 1 Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Tịch thu, tiêu hủy mẫu vật còn lại sau giám định là 05 (năm) viên nén màu xanh có khối lượng 1,6422 gam MDMA; 01 (viên) nén màu nâu và một nửa viên nén màu nâu có khối lượng 0,3311 gam Ketamine được niêm phong tại gói số 1057/GĐMT-PC09 ngày 27/11/2018), là tang vật của vụ án.

+ Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Oppo, màu đen, kèm theo sim số, đây là tài sản của bị cáo dùng làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội.

+ Trả lại cho bị cáo Lê Văn T số tiền 1.700.000 đồng (Một triệu bảy trăm ngàn đồng), vì không liên quan đến hành vi phạm tội, nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự;

[1] Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Xử phạt Lê Văn T: 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời gian chấp hành hình phạt tù: Kể từ ngày bắt quả tang và tạm giữ, tạm giam, ngày 26/11/2018.

[2] Các biện pháp tư pháp: Áp dụng khoản 1 Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Tịch thu, tiêu hủy mẫu vật còn lại sau giám định là 05 (năm) viên nén màu xanh có khối lượng 1,6422 gam MDMA; 01 (viên) nén màu nâu và một nửa viên nén màu nâu có khối lượng 0,3311 gam Ketamine được niêm phong tại gói số 1057/GĐMT-PC09 ngày 27/11/2018), là tang vật của vụ án.

+ Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Oppo, màu đen, kèm theo sim số, đây là tài sản của bị cáo dùng làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội.

+ Trả lại cho bị cáo Lê Văn T số tiền 1.700.000 đồng (Một triệu bảy trăm ngàn đồng), vì không liên quan đến hành vi phạm tội, nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án.

(Đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 14/3/2019 giữa Cơ quan điều tra Công an Tp. Buôn Ma Thuột với Chi cục Thi hành án dân sự Tp. Buôn Ma Thuột).

[3] Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 21, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo Lê Văn T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 76/2019/HSST ngày 16/04/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:76/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về