Bản án 76/2019/HNGĐ-ST ngày 20/11/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 76/2019/HNGĐ-ST NGÀY 20/11/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH 

Ngày 20 tháng 11 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện T1, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 254/2019/TLST-HNGĐ ngày 30 tháng 9 năm 2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 78/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 21 tháng 10 năm 2019; Quyết định hoãn phiên tòa số 65/2019/QĐST-HNGĐ ngày 06 tháng 11 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1989.

Hộ khẩu thường trú: Thôn ĐQ, xã NH, huyện T1, tỉnh Thái Bình. Chỗ ở hiện nay: Thôn HP, xã TA, huyện T1, tỉnh Thái Bình (chị T vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Anh Đỗ Văn D, sinh năm 1983.

Hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn ĐQ, xã NH, huyện T1, tỉnh Thái Bình (anh D vắng mặt lần thứ hai không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị T trình bày:

Chị và anh Đỗ Văn D, sinh năm 1983 có hộ khẩu thường trú tại thôn ĐQ, xã NH, huyện T1, tỉnh Thái Bình tự nguyện tìm hiểu và kết hôn với nhau vào ngày 23/11/2006 được Uỷ ban nhân dân xã NH, huyện T1, tỉnh Thái Bình chứng nhận kết hôn. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống hạnh phúc được khoảng một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình không hợp, vợ chồng không hiểu và thông cảm cho nhau dẫn đến cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc; anh D chồng chị không chịu tu chí làm ăn, hay uống rượu về nhà đánh chửi vợ con nên cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc. Anh chị đã sống ly thân từ tháng 8 năm 2019 cho đến nay, chị đã chuyển về nhà ngoại sinh sống và làm việc. Nay xác định tình cảm không còn, không thể quay về chung sống và đoàn tụ được nữa, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Đỗ Văn D.

Về con chung, Chị và anh D có 02 con chung là Đỗ Văn B, sinh ngày 11/11/2007 và Đỗ Thị Minh T2, sinh ngày 18/10/2009, hiện tại con Đỗ Văn B đang ở với anh D, con Đỗ Thị Minh T2 đang ở với chị. Khi ly hôn, chị đề nghị Tòa án giao cho chị được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Đỗ Thị Minh T2, sinh ngày 18/10/2009; anh D được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Đỗ Văn B, sinh ngày 11/11/2007; hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau (con B có nguyện vọng được ở với bố, con T2 có nguyện vọng được ở với mẹ).

Về tài sản chung, Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Khi thụ lý vụ án, anh D có mặt tại Tòa án và viết bản tự khai; khi Tòa án mở phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải, anh D không đến Tòa án.

Tại biên bản làm việc ngày 15/10/2019 tại gia đình anh Đỗ Văn D, sinh năm 1983, có địa chỉ tại thôn ĐQ, xã NH, huyện T1, tỉnh Thái Bình; bà Nguyễn Thị X, sinh năm 1953 (bà X là mẹ đẻ anh Đỗ Văn D) trình bày:

Bà là mẹ đẻ anh Đỗ Văn D, hiện nay con trai bà là anh D đang đi làm ăn, con trai bà đã nhận được văn bản và giấy báo lên làm việc của Tòa án. Tuy nhiên, hiện nay anh D đi làm ăn kinh tế nên không đến Tòa án để làm việc tiếp được. Về quan hệ hôn nhân giữa anh D và chị T, theo bà X, anh D và chị T tự nguyện tìm hiểu và kết hôn với nhau vào năm 2006 tại UBND xã NH. Sau khi kết hôn thì vợ chồng anh chị ở với nhau được hơn 10 năm. Đến khoảng tháng 8, tháng 9 năm 2019 chị T chuyển về nhà ngoại sinh sống cùng con Đỗ Thị Minh T2, còn con Đỗ Văn B đang ở cùng bố và nhà nội. Về mâu thuẫn cụ thể của vợ chồng anh chị bà không được rõ. Chị T có đơn xin ly hôn, anh D và gia đình bà có biết. Quan điểm của gia đình là nếu chị T kiên quyết ly hôn thì gia đình bà cũng chấp nhận. Về con chung, thì quan điểm của gia đình là cháu B ở cùng với bố, cháu T2 ở cùng với mẹ, hai bên không phải cấp dưỡng cùng nhau. Về tài sản, công nợ thì không có gì, không đề nghị Tòa án giải quyết. Theo bà X, anh D cũng trao đổi với bà nội dung như vậy.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện T1, tỉnh Thái Bình phát biểu quan điểm: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và T2 ký Tòa án đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 70, 71 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử xử cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn anh Đỗ Văn D. Về con chung, giao con chung Đỗ Văn B, sinh ngày 11/11/2007 cho anh D được trực tiếp nuôi dưỡng; giao con chung Đỗ Thị Minh T2, sinh ngày 18/10/2009 cho chị T được trực tiếp nuôi dưỡng; hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng nhau; anh D và chị T có quyền thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở. Về tài sản chung, do đương sự không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả giải quyết tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn là chị Nguyễn Thị T vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn là anh Đỗ Văn D vắng mặt lần thứ hai không có lý do, vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt chị T và anh D.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

[2.1] Chị Nguyễn Thị T và anh Đỗ Văn D kết hôn trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, là hôn nhân hợp pháp. Căn cứ yêu cầu giải quyết ly hôn của chị T cung cấp phù hợp với các tài liệu chứng cứ Tòa án thu thập trong quá trình giải quyết vụ án nên xác định: Sau khi kết hôn, anh chị chung sống hạnh phúc được khoảng một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình không hợp, vợ chồng không hiểu và thông cảm cho nhau, anh D không tu chí làm ăn dẫn đến cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc. Anh chị đã sống ly thân từ tháng 8 năm 2019 cho đến nay.

[2.2] Chị T có đơn xin ly hôn, anh D đến Tòa án viết bản tự khai không đồng ý ly hôn, tuy nhiên anh không đưa ra được phương án để vợ chồng về đoàn tụ. Tòa án tổ chức phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải, anh D không đến. Qua gia đình, anh D có quan điểm nếu chị T kiên quyết ly hôn, anh cũng đồng ý. Như vậy, có thể thấy tình cảm vợ chồng của chị T và anh D đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 xử cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn anh Đỗ Văn D.

[3] Về con chung: Chị T và anh D có 02 con chung là Đỗ Văn B, sinh ngày 11/11/2007 và Đỗ Thị Minh T2, sinh ngày 18/10/2009, hiện tại con Đỗ Văn B đang ở với anh D, con Đỗ Thị Minh T2 đang ở với chị T. Hội đồng xét xử xét thấy cần giao con chung Đỗ Văn B, sinh ngày 11/11/2007 cho anh D được trực tiếp nuôi dưỡng; giao con chung Đỗ Thị Minh T2, sinh ngày 18/10/2009 cho chị T được trực tiếp nuôi dưỡng, hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng nhau; anh D, chị T có quyền thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở, vấn đề thay đổi nuôi con chung, cấp dưỡng nuôi con chung được đặt ra giải D khi các bên đương sự có yêu cầu.

[4] Về tài sản chung: Do các đương sự không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

[5] Về án phí: Chị Nguyễn Thị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị định số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban T2ờng vụ Quốc hội về án phí và lệ phí tòa án:

1. Về quan hệ hôn nhân:

Xử cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn anh Đỗ Văn D.

2. Về con chung:

Giao con chung Đỗ Văn B, sinh ngày 11/11/2007 cho anh D được trực tiếp nuôi dưỡng; giao con chung Đỗ Thị Minh T2, sinh ngày 18/10/2009 cho chị T được trực tiếp nuôi dưỡng, hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng nhau; anh D, chị T có quyền thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở, vấn đề thay đổi nuôi con chung, cấp dưỡng nuôi con chung được đặt ra giải D khi các bên đương sự có yêu cầu.

3. Về tài sản chung:

Không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí:

Nguyên đơn là chị Nguyễn Thị T phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, khấu trừ số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí chị T đã nộp theo Biên lai số 0009281 ngày 30/9/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T1, tỉnh Thái Bình. Chị Nguyễn Thị T đã nộp đủ án phí.

5. Quyền kháng cáo:

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

234
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 76/2019/HNGĐ-ST ngày 20/11/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:76/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiền Hải - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:20/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về