Bản án 76/2019/HNGĐ-ST ngày 06/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 76/2019/HNGĐ-ST NGÀY 06/11/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 06 tháng 11 năm 2019 tại Toà án nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 295/2019/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 4 năm 2019 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 91/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 27 tháng 9 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 76/2019/QĐST-HNGĐ ngày 18 tháng 10 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị A, sinh năm 1993

Địa chỉ: Thôn EP, xã CN, huyện KB, tỉnh Đăk Lăk. Vắng mặt có đơn xin giải quyết vắng mặt

2. Bị đơn: Anh Lê Quốc C, sinh năm 1983

Địa chỉ: 134 TC, phường PĐ, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 22/4/2019, bản tự khai ngày 25/4/2019, các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ và Đơn xin giải quyết vắng mặt, ý kiến của nguyên đơn chị Nguyễn Thị A như sau: Chị và anh Lê Quốc C sau thời gian tìm hiểu đi đến hôn nhân trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã CN, huyện KB, tỉnh Đăk Lăk. Sau một thời gian chung sống hạnh phúc, vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng không hòa hợp về tính cách dẫn đến thường xuyên xảy ra cãi vả làm rạn nứt tình cảm; mâu thuẫn phát sinh trầm trọng nên vợ chồng đã sống ly thân suốt 07 năm nay. Trong thời gian sống ly thân, mỗi người đều có cuộc sống riêng, không ai quan tâm đến ai. Nay chị không còn tình cảm yêu thương đối với anh C nên yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh Lê Quốc C.

Về con chung: Chị và anh Lê Quốc C có 01 (Một) con chung là Lê Nguyễn Quốc B, sinh ngày 07/02/2011. Cháu hiện đang sống với chị. Ly hôn chị yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Lê Nguyễn Quốc B do cháu đã sống cùng với chị từ khi cháu còn nhỏ.

Về cấp dưỡng nuôi con: Bản thân chị có khả năng về kinh tế để chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Lê Nguyễn Quốc B nên chị không yêu cầu anh C phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung: Chị và anh Lê Quốc C không có tài sản chung và nghĩa vụ chung phải thực hiện nên không yêu cầu Tòa giải quyết.

Đối với bị đơn anh Lê Quốc C:

Anh Lê Quốc C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần để anh C trình bày ý kiến về yêu cầu ly hôn, giải quyết vấn đề con chung của chị Nguyễn Thị A nhưng anh Lê Quốc C không đến Tòa án làm việc. Vì vậy Tòa án tiến hành các thủ tục tố tụng theo luật định để xét xử vắng mặt bị đơn.

Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku có ý kiến như sau:

Về trình tự, thủ tục tố tụng: Việc Tòa án thụ lý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục tố tụng. Quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng quy định của pháp luật về thụ lý vụ án, thẩm quyền giải quyết vụ án, thu thập chứng cứ, thông báo về việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cũng như trình tự phiên tòa. Đảm bảo thời hạn chuẩn bị xét xử. Nguyên đơn chị Nguyễn Thị A chấp hành đúng theo quy định của pháp luật tố tụng. Đối với bị đơn anh Lê Quốc C, việc chấp hành theo quy định của pháp luật tố tụng chưa bảo đảm.

Về nội dung: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị A về yêu cầu ly hôn với anh Lê Quốc C và giao cháu Lê Nguyễn Quốc B cho chị Nguyễn Thị A chăm sóc, nuôi dưỡng. Chị Nguyễn Thị A phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Chị Nguyễn Thị A và anh Lê Quốc C kết hôn trên cơ sở tự nguyện, không thuộc trường hợp cấm kết hôn, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã CN, huyện KB, tỉnh Đăk Lăk ngày 09/3/2011. Hôn nhân của chị A và anh C tuân thủ theo Điều 9,10,11 Luật hôn nhân gia đình năm 2000 nên hôn nhân hợp pháp.

Do mâu thuẫn vợ chồng chị Nguyễn Thị A cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh Lê Quốc C đồng thời giải quyết về vấn đề con chung, bị đơn anh Lê Quốc C cư trú trên địa bàn thành phố P nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố P theo loại việc, theo lãnh thổ và theo cấp xét xử Ngày 27/9/2019 nguyên đơn chị Nguyễn Thị A có đơn xin giải quyết vắng mặt. Quá trình Tòa án giải quyết vụ án, bị đơn anh Lê Quốc C đã được Tòa án tống đạt hợp lệ văn bản tố tụng của Tòa án để anh trình bày ý kiến về yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị A, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, hòa giải đoàn tụ và hòa giải về hôn nhân, con chung và các vấn đề khác cũng như tham gia phiên tòa nhưng anh C vắng mặt. Do đó căn cứ theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[2] Tòa án đã tiến hành xác minh tại chính quyền địa phương theo biên bản xác minh ngày 23/7/2019 nhưng không xác định được mâu thuẫn vợ chồng giữa chị A và anh C tuy nhiên hiện chị Nguyễn Thị A không chung sống với anh Lê Quốc C.

Biên bản xác minh này phù hợp với lời khai của chị Nguyễn Thị A: Giữa chị và anh Nguyễn Văn C phát sinh nhiều mâu thuẫn trầm trọng dẫn đến chị và anh C đã sống ly thân từ năm 2012.

Như vậy trên thực tế quan hệ vợ chồng giữa chị A và anh C không thực hiện được vì anh chị hiện không cung chung sống, không còn sự quan tâm, chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau do đó mục đích xây dựng hôn nhân hạnh phúc không đạt được.

Từ đó có cơ sở khẳng định hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị A và anh Lê Quốc C phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị A, xử cho chị A được ly hôn với anh Lê Quốc C.

Về con chung: Chị Nguyễn Thị A và anh Lê Quốc C có 01 (Một) con chung là Lê Nguyễn Quốc B, sinh ngày 07/02/2011.

Chị Nguyễn Thị A có nguyện vọng được chăm sóc, nuôi dưỡng con chung. Cháu Lê Nguyễn Quốc B hiện đang sống với chị A, cháu có nguyện vọng chung sống với chị A nên giao cho chị A trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp. Vì vậy căn cứ theo quy định tại Điều 92 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, việc giao cháu Lê Nguyễn Quốc B cho chị Nguyễn Thị A trực tiếp nuôi dưỡng sau khi ly hôn là chính đáng cần chấp nhận.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Nguyễn Thị A đủ điều kiện kinh tế chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Lê Nguyễn Quốc B nên không yêu cầu anh Lê Quốc C cấp dưỡng nuôi con do đó Hội đồng xét xử không giải quyết.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung: Chị Nguyễn Thị A không yêu cầu Tòa án giải quyết vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét trong cùng vụ án này. Về án phí: Chị Nguyễn Thị A phải chịu tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 227, Điều 228, Điều 266, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 9, 10, 11, 92 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000;

Áp dụng Điều 51, 53, 54, 56, 57, 81, 82, 83 84, 131 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Điều 146, Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ quốc Hội ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Nguyễn Thị A Chị Nguyễn Thị Ánh được ly hôn với anh Lê Quốc C

2. Về con chung: Giao 01 (Một) con chung là cháu Lê Nguyễn Quóc B, sinh ngày 07/02/2011 cho chị Nguyễn Thị A trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi con thành niên hoặc đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.

Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc việc cấp dưỡng nuôi con.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị A phải chịu tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng nhưng được khấu trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp trước đây theo biên lai số 0001372 ngày 25/4/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố P.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị A được quyền làm đơn kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai để yêu cầu xét xử phúc thẩm. Riêng bị đơn anh Lê Quốc C vắng mặt tại phiên toà có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án hoặc bản sao bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 76/2019/HNGĐ-ST ngày 06/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:76/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về