Bản án 76/2018/HNGĐ-ST ngày 19/10/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠNG GIANG, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 76/2018/HNGĐ-ST NGÀY 19/10/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 19/10/2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 319/2018/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 8 năm 2018 về việc tranh chấp hôn nhân và gia đình, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 142/2018/QĐXXST-DS ngày 30/8/2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn L, sinh năm 1991 (có mặt).

- Bị đơn: Chị Hà Thị V, sinh năm 1992 (có mặt)

Đều cư trú: Thôn S, thị trấn V, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 01/8/2018 và những lời khai tiếp theo, nguyên đơn anh Nguyễn Văn L trình bày: Tôi kết hôn với chị Hà Thị V ngày 05/10/2016, trước khi cưới có được tìm hiểu, tự nguyện thỏa thuận, đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn V, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận đến tháng 3/2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do tính cách vợ chồng không hợp nhau, nên trong cuộc sống và trong công việc làm ăn hàng ngày vợ chồng thường bất đồng quan điểm dẫn đến cãi nhau, không bảo ban được nhau để cùng làm ăn phát triển kinh tế, xây dựng hạnh phúc gia đình. Mặc dù vợ chồng vẫn ở chung nhà nhưng đã cắt đứt mọi quan hệ vợ chồng từ tháng 6/2018. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn tôi thiết tha xin được ly hôn chị V. Về con chung: Vợ chồng có 1 con chung là Nguyễn Hà V, sinh ngày 08/5/2017, hiện con đang ở cùng bố mẹ, con khỏe mạnh và phát triển bình thường; nay ly hôn vì con còn nhỏ nên để chị V nuôi con, không đề nghị Tòa án giải quyết về cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản: Vợ chồng không có tài sản gì đáng giá, nên tôi không đề nghị Tòa án giải quyết.

* Bị đơn chị Hà Thị V xác nhận một phần lời khai của anh L và trình bày: Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận đến tháng 6/2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống, chưa hiểu hết suy nghĩ của nhau. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng vẫn còn nên anh L xin ly hôn tôi không đồng ý. Về con chung: Như anh L trình bày là đúng, nếu phải ly hôn tôi xin nuôi con, không đề nghị Tòa án giải quyết về cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản: Vợ chồng không có tài sản gì đáng giá, nên tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên toà hôm nay: Anh L, chị V đều có mặt; anh L trình bày thêm: Do vợ chồng đã có quá nhiều bất đồng quan điểm trong cuộc sống, mặc dù đã được gia đình giàn xếp hòa giải nhưng tỉnh cảm vợ chồng vẫn không hòa thuận được. Chị V trình bày thêm: Tôi cũng đã nhận ra thiếu sót của mình, nhưng anh L thường xuyên vắng nhà nên tôi không có biện pháp gì để hòa giải đoàn tụ vợ chồng.

Phát biểu của kiểm sát viên tại phiên tòa: Về việc chấp hành pháp luật tố tụng của thẩm phán, thư ký, hội thẩm nhân dân, anh L, chị V trong suốt quá trình thụ lý giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay đều tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Đề nghị HĐXX vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định của pháp luật. Đề nghị xét xử cho anh L được ly hôn chị V; chấp nhận thỏa thuận giao chị V nuôi con chung; về cấp dưỡng nuôi con và tài sản cả anh L và chị V đều không đề nghị Tòa án giải quyết, nên đề nghị HĐXX không xem xét giải quyết; anh L phải chịu tiền án phí theo quy định của pháp luật. Ngoài ra còn đề nghị tuyên quyền kháng cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu đầy đủ, toàn diện các chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm vấn công khai tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp, phạm vi khởi kiện và thẩm quyền giải quyết:

Tại đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 01/8/2018 và những lời khai tiếp theo, nguyên đơn anh Nguyễn Văn L, sinh năm 1991, nơi cư trú: Thôn S, thị trấn V, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang; khởi kiện xin ly hôn chị Hà Thị V, sinh năm 1992, nơi cư trú: Thôn S, thị trấn V, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang; đề nghị Tòa án giải quyết về con chung; không đề nghị Tòa án giải quyết về cấp dưỡng nuôi con và tài sản. Như vậy đây là quan hệ pháp luật tranh chấp hôn nhân và gia đình, phạm vi khởi kiện là đề nghị xin được ly hôn và đề nghị giải quyết về con chung, không đề nghị giải quyết về cấp dưỡng nuôi con và tài sản, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang.

[2] Nội dung vụ án:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Văn L kết hôn với chị Hà Thị V ngày 05/10/2016, trên cơ sở tự nguyện, hợp pháp, đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn V, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Quá trình chung sống vợ chồng hoà thuận đến đầu năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do tính cách vợ chồng không hợp nhau, nên trong cuộc sống và trong công việc làm ăn hàng ngày vợ chồng thường bất đồng quan điểm dẫn đến đánh cãi chửi nhau, không bảo ban được nhau để cùng làm ăn phát triển kinh tế, xây dựng hạnh phúc gia đình, mặc dù đã được giai đình hòa giải nhưng tình cảm vợ chồng vẫn không hòa thuận được. Vợ chồng sống ly thân và cắt đứt mọi quan hệ vợ chồng từ tháng 6/2018. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, anh L thiết tha xin được ly hôn, nhưng phía chị V không đồng ý ly hôn. HĐXX xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng đã diễn ra căng thẳng kéo dài, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy cần xử cho anh L được ly hôn chị V để giải phóng cho cả 2 bên, xét là phù hợp Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2.2] Về nuôi con chung: Anh L và chị V sinh được 1 con chung là Nguyễn Hà V, sinh ngày 08/5/2017, hiện cháu đang ở cùng bố mẹ, cháu khỏe mạnh và phát triển bình thường, nay cả anh L và chị V đều thỏa thuận để chị V nuôi con, HĐXX xét thấy thỏa thuận về việc nuôi con của anh L, chị V là hoàn toàn tự nguyện, không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội nên cần chấp nhận. Về cấp dưỡng nuôi con; cả anh L và chị V đều không đề nghị Tòa án giải quyết, nên HĐXX không đặt ra xem xét giải quyết, anh L được quyền thăm nom con sau khi đã ly hôn, không ai được cản trở anh L thực hiện quyền này. Xét là phù hợp Điều 81; 82; 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2.3] Về chia tài sản: Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay, cả anh L và chị V đều không đề nghị Tòa án giải quyết. Nên HĐXX không đặt ra xem xét giải quyết.

[2.4] Về án phí: Anh Nguyễn Văn L phải chịu 300.000đ tiền án phí ly hôn sơ thẩm. Ghi nhận anh L đã nộp 300.000đ tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số AA/2018/0006676 Ngày 09/8/2018 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Lạng Giang.

Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

* Áp dụng Điều 28; 35; 147; 235; 264; 271; 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Điều 56; 81; 82; 83 Luật Hôn nhân và gia đình nă m 2014. Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

1/ Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Nguyễn Văn L được ly hôn chị Hà Thị V.

2/ Về nuôi con chung: Chấp nhận sự thỏa thuận giao chị Hà Thị V nuôi con chung là Nguyễn Hà V, sinh ngày 08/5/2017; anh L được quyền thăm nom con sau khi đã ly hôn, không ai được cản trở anh L thực hiện quyền này.

3/ Về án phí: Anh Nguyễn Văn L phải chịu 300.000đ tiền án phí ly hôn sơ thẩm. Nhưng được khấu trừ vào 300.000đ tiền anh L đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số AA/2018/0006676 Ngày 09/8/2018 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Lạng Giang.

Báo cho các đương sự có mặt biết được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Án xử sơ thẩm công khai./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 76/2018/HNGĐ-ST ngày 19/10/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:76/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạng Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về