Bản án 758/2019/HNGĐ-ST ngày 10/09/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN PHÚ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 758/2019/HNGĐ-ST NGÀY 10/09/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 10 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Tân Phú, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 201/2019/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 3 năm 2019, về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 93/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 8 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 63/2019/QĐST-HNGĐ ngày 20 tháng 8 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Hoàng Hải L, sinh năm 1991; Ngụ tại: 133 C, phường T, quận T1, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt)

- Bị đơn: Bà Nguyễn Bé T, sinh năm 1988; Ngụ tại: 133 C, phường T, quận T1, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 30/11/2018 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn là ông Hoàng Hải L trình bày:

Ông và bà Nguyễn Bé T tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2011, có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường T, quận T1, Thành phố Hồ Chí Minh theo Giấy chứng nhận kết hôn số 34/2011, quyển số 01/P.TT ngày 12/3/2011.

Vợ chồng chung sống hạnh phúc được 05 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm về nhiều vấn đề trong cuộc sống, vợ chồng không tin tưởng lẫn nhau, không có tiếng nói chung nên thường xuyên cãi vã. Hai bên đã nhiều lần hòa giải nhưng không có kết quả. Đầu năm 2019 bà T bỏ nhà đi đến nay không về, vợ chồng ly thân từ đầu năm 2019 đến nay. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên ông xin ly hôn với bà T để ổn định cuộc sống.

Về con chung: Ông L khai nhận, ông và bà T có hai con chung là Hoàng M, sinh ngày 25/4/2012 và Hoàng Nguyễn Hải B, sinh ngày 16/7/2015. Khi ly hôn ông L yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung và không yêu cầu bà T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Ông L khai nhận, ông và bà T không có tài sản chung. Về nợ chung: Ông L khai nhận, ông và bà T không có nợ chung.

Toà án nhân dân quận Tân Phú đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, thông báo hoãn phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa, giấy triệu tập đương sự cho bà Nguyễn Bé T nhưng phía bị đơn không có mặt tại Toà án để giải quyết vụ án nên Tòa án đưa vụ án ra xét xử theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Tại phiên tòa hôm nay:

- Nguyên đơn: Vẫn giữ nguyên ý kiến yêu cầu trên.

- Bị đơn: Vắng mặt không có lý do.

Đi diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Tân Phú tham gia phiên tòa trình bày ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng như sau: Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Tân Phú nhận xét quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, thu thập chứng cứ xét xử, thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng trình tự thủ tục theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, người tham gia tố tụng chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; Căn cứ vào các Điều 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông Hoàng Hải L với bà Nguyễn Bé T. Giao hai con chung là Hoàng M, sinh ngày 25/4/2012 và Hoàng Nguyễn Hải B, sinh ngày 16/7/2015 cho ông L trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho bà T do ông L không yêu cầu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, sau khi nghe ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú, sau khi nghị án Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Căn cứ Giấy chứng nhận kết hôn số 34/2011, quyển số 01/P.TT ngày 12/3/2011 do Ủy ban nhân dân phường Tân Thành, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh cấp thì có cơ sở xác định quan hệ hôn nhân giữa ông Hoàng Hải L và bà Nguyễn Bé T là quan hệ hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận. Nay ông L yêu cầu ly hôn, bà T có nơi cư ngụ tại quận Tân Phú nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án quận Tân Phú theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Về thủ tục xét xử vắng mặt bà Nguyễn Bé T: Do bà Nguyễn Bé T vắng mặt không lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ, nên Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 xét xử vắng mặt bà Nguyễn Bé T.

[2]. Về yêu cầu của nguyên đơn: Ông Hoàng Hải L yêu cầu ly hôn với bà Nguyễn Bé T:

Căn cứ lời khai của ông L xét thấy tình trạng hôn nhân giữa ông L và bà T là có thật. Cuộc sống vợ chồng có xảy ra những mâu thuẫn, vợ chồng không có sự quan tâm, chia sẻ, mạnh ai nấy sống dẫn đến cuộc sống chung không hạnh phúc, mâu thuẫn kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được.

Tòa án cũng đã tiến hành hòa giải để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng bà T vắng mặt thể hiện bà T không thiết tha trong việc hàn gắn tình cảm vợ chồng. Hơn nữa, ông L và bà T đã ly thân từ đầu năm 2019 đến nay, thể hiện tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn.

Xét thấy tình trạng hôn nhân giữa ông L và bà T không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được nên việc ông L yêu cầu được ly hôn với bà T là có cơ sở. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của ông L.

[3]. Về quan hệ con chung: Ông L khai nhận, vợ chồng có hai con chung là Hoàng Minh M, sinh ngày 25/4/2012 và Hoàng Nguyễn Hải B, sinh ngày 16/7/2015. Khi ly hôn ông L yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung. Ông L không yêu cầu bà T cấp dưỡng nuôi con.

Hi đồng xét xử xét thấy việc giao con chung cho ai nuôi là phải dựa vào quyền lợi của trẻ.

Xét tại phiên tòa ông L trình bày: Từ khi vợ chồng ông bà ly thân đến nay, ông L là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cả hai con chung, bà T không về thăm con cũng như không trợ cấp gì để phụ ông L nuôi con.

Hơn nữa, tại bản tự khai của cháu M ngày 02/8/2019, cháu M có nguyện vọng được sống với ba. Do đó, xét thấy việc ông L yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu M và cháu B là hoàn toàn phù hợp với lợi ích và nguyện vọng của hai cháu và phù hợp với quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu này của ông L.

Về cấp dưỡng nuôi con: Hội đồng xét xử ghi nhận việc ông L không yêu cầu bà T cấp dưỡng nuôi con. Do đó, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho bà T.

[4]. Về quan hệ tài sản:

- Về tài sản chung: Ông L khai nhận, ông và bà T không có tài sản chung.

- Về nợ chung: Ông L khai nhận, ông và bà T không có nợ chung. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5].Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì ông L chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;

- Căn cứ vào Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1/ Chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông Hoàng Hải L:

- Về quan hệ hôn nhân: Ông Hoàng Hải L được ly hôn với bà Nguyễn Bé T.

Giấy chứng nhận kết hôn số 34/2011, quyển số 01/P.TT ngày 12/3/2011 do Ủy ban nhân dân phường Tân Thành, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh cấp cho ông Hoàng Hải L và bà Nguyễn Bé T hết hiệu lực kể từ ngày bản án này có hiệu lực pháp luật.

- Về quan hệ con chung: Giao hai con chung là Hoàng Minh M, sinh ngày 25/4/2012 và Hoàng Nguyễn Hải B, sinh ngày 16/7/2015 cho ông L trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho bà T do ông L không yêu cầu.

+ Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng do các bên tự thỏa thuận. Nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

+ Bà T được quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở.

+ Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của cha mẹ hoặc cá nhân, tổ chức (người thân thích, cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ), Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

- Về quan hệ tài sản:

+ Về tài sản chung: Ông L khai nhận, ông và bà T không có tài sản chung.

+ Về nợ chung: Ông L khai nhận, ông và bà T không có nợ chung.

2/ Về án phí:

Án phí hôn nhân sơ thẩm: Ông Hoàng Hải L chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 (ba trăn ngàn) đồng được cấn trừ vào tiền tạm ứng án phí mà ông L đã nộp theo biên lai thu số 0012629 ngày 19 tháng 3 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh. Ông L đã nộp đủ án phí.

3/ Quyền kháng cáo:

Ông Hoàng Hải L có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Bà Nguyễn Bé T vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ bản án.

Trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 758/2019/HNGĐ-ST ngày 10/09/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:758/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Phú - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về