Bản án 75/2021/HNGĐ-ST ngày 14/06/2021 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 75/2021/HNGĐ-ST NGÀY 14/06/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON CHUNG

Ngày 14 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 56/2021/HNGĐ – TLST ngày 01/4/2021 về việc “ Tranh chấp ly hôn và nuôi con chung”.Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 76/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 10/5/2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 71/2021/QĐ-ST ngày 27/5/2021 giữa:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Minh T, sinh năm 1994. Địa chỉ: Thôn S, xã M, huyện T, tỉnh Hải Dương (vắng mặt).

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn S, sinh năm 1993.

Địa chỉ trước khi xuất cảnh: Thôn S, xã M, huyện T, tỉnh Hải Dương. Hiện đang cư trú tại: Đài Loan (vắng mặt).

3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Văn X, sinh năm 1970 (vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn S, xã M, huyện T, tỉnh Hải Dương.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn xin ly hôn, bản tự khai - Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Minh T trình bày: Chị và anh S được tự do tìm hiểu có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã K (nay là xã M), huyện T, tỉnh Hải Dương ngày 30/12/2014. Sau ngày cưới vợ chồng sống hòa thuận hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh S mải chơi lô đề, cờ bạc, chị đã nhiều lần khuyên bảo nhưng anh S không thay đổi mà có hành vi đánh đập chị. Chị đã về nhà mẹ đẻ ở, anh S có đến xin lỗi, chị nghĩ cho con nên đã quay lại chung sống cùng với anh S nhưng anh S vẫn không thay đổi. Tháng 3/2018 chị tiếp tục về nhà mẹ đẻ ở, vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay. Trong thời gian chị ở nhà mẹ đẻ, anh S đã làm thủ tục đi nước ngoài, vợ chồng không liên lạc với nhau. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh S.

Về con chung : Vợ chồng chị có 1 con là cháu Nguyễn Văn Gia B, sinh ngày 30/9/2015. Hiện tại cháu B đang ở với ông bà nội là ông Nguyễn Văn X và bà Nguyễn Thị L. Ly hôn chị có nguyện vọng được nuôi con, tự nguyện không yêu cầu anh S phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Trường hợp anh S có nguyện vọng được nuôi con chị cũng đồng ý. Trong thời gian anh S không ở Việt Nam chị đồng ý để cháu B ở với ông bà nội.

Về tài sản chung, nợ chung : Không có, không đề nghị Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án, chị T không cung cấp được địa chỉ của anh S ở Đài Loan. Tòa án đã tiến hành lấy lời khai của ông Nguyễn Văn X là bố đẻ của anh S. Ông X xác định anh S đi Đài Loan lao động từ năm 2019, sau đó chị T về nhà đẻ ở, để lại cháu Gia B cho vợ chồng ông chăm sóc, nuôi dưỡng. Trong cuộc sống hàng ngày, vợ chồng chị T, anh S sống không hạnh phúc, nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng quan điểm về kinh tế. Việc chị T làm đơn ly hôn anh S gia đình ông có biết. Ông không biết địa chỉ của anh S ở nước ngoài nên không thể cung cấp cho Tòa án nhưng anh S vẫn thường xuyên liên lạc với gia đình qua điện thoại. Ông đồng ý nhận các văn bản tố tụng của Tòa án và có trách nhiệm thông báo cho anh S biết. Sau khi nhận các văn bản tố tụng của Tòa án, ông X xác định đã thông tin cho anh S biết. Anh S có quan điểm đồng ý ly hôn và xin được nuôi con, thời gian anh S không ở Việt Nam anh ủy quyền cho ông chăm sóc, nuôi dưỡng cháu B. Về tài sản chung, nợ chung anh S không đề nghị Tòa án giải quyết và đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và nguyên đơn cơ bản đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về quan điểm giải quyết: Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ cho thấy mâu thuẫn của chị T, anh S đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho chị T được ly hôn anh S; Về con chung: Giao cháu Nguyễn Văn Gia B, sinh ngày 30/9/2015 cho anh S chăm sóc, nuôi dưỡng. Trong thời gian anh S không có mặt tại Việt Nam, tạm giao cháu B cho ông Nguyễn Văn X, chăm sóc, nuôi dưỡng; Về cấp dưỡng tiền nuôi con: Chị T phải cấp dưỡng tiền nuôi con theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, xem xét ý kiến của các đương sự, quan điểm đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương, Hội đồng xét xử nhận định:

[1].Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, chị T không cung cấp được địa chỉ của anh S ở Đài Loan.Theo hướng dẫn tại Công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương đã hai lần yêu cầu gia đình anh S cung cấp địa chỉ, nhưng gia đình không cung cấp được. Qua xác minh tại gia đình anh S thì được biết, anh S vẫn thường xuyên liên lạc với bố đẻ là Nguyễn Văn X, thông qua ông X, anh S có quan điểm đồng ý ly hôn với chị T. Do vậy Tòa án tiến hành xét xử theo thủ tục cố tình giấu địa chỉ. Anh S đồng ý để ông X chăm sóc nuôi dưỡng cháu B trong thời gian anh S không ở Việt Nam nên Tòa án xác định ông Nguyễn Văn X là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án.

Trong quá trình giải quyết vụ án chị T, ông X có quan điểm xin được xét xử vắng mặt. Do vậy căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo quy định của pháp luật.

[2]. Về nội dung:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Minh T và anh Nguyễn Văn S kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn Ủy ban nhân dân xã T (nay là xã M), huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương ngày 30/12/2014, do vậy hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Sau ngày cưới vợ chồng sống hòa thuận hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do bất đồng quan điểm về kinh tế dẫn đến vợ chồng không tìm thấy tiếng nói chung, chị T đã nhiều lần bỏ về nhà mẹ đẻ sinh sống. Nay chị T xác định tình cảm vợ chồng không còn và đề nghị Tòa án giải quyết được ly hôn. Thông qua gia đình, anh S cũng có quan điểm đồng ý ly hôn với chị T. Xét thấy, thực tế chị T và anh S đã có thời gian dài sống ly thân, không còn sự quan tâm đến nhau. Nay cả hai đều xác định tình cảm vợ chồng không còn và đều có quan điểm đồng ý ly hôn, do vậy có căn cứ chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị T.

- Về con chung: Chị Nguyễn Thị Minh T và anh Nguyễn Văn S có 01 con chung cháu Nguyễn Văn Gia B, sinh ngày 30/9/2015, cháu B sống với ông bà nội từ nhỏ do chị T đi làm công nhân tại công ty, không có thời gian chăm sóc, đưa đón con. Ly hôn chị T và anh S đều có quan điểm để cho anh S nuôi con. Trong thời gian anh S không ở Việt Nam chị T, anh S đồng ý để cháu B cho ông X chăm sóc. Do vậy, để đảm B sự ổn định cuộc sống cũng như nguyện vọng của các đương sự, cần giao cháu B cho anh S nuôi dưỡng. Tạm giao cháu B cho ông Nguyễn Văn X chăm sóc, nuôi dưỡng trong thời gian anh S không ở Việt Nam. Chị T có trách nhiệm cấp dưỡng tiền nuôi con chung cùng anh S là 1.000.000đ/tháng cho đến khi con tròn 18 tuổi.

- Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên không xem xét.

[3].Về án phí: Chị T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm và án phí cấp dưỡng tiền nuôi con theo quy định của pháp luật.

Vì những lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 56; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147, khoản 2 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/QH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án. Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị Minh T được ly hôn anh Nguyễn Văn S.

2.Về con chung: Giao con chung Nguyễn Văn Gia B, sinh ngày 30/9/2015 cho anh Nguyễn Văn S nuôi dưỡng. Chị T phải có trách nhiệm cấp dưỡng tiền nuôi con chung là 1.000.000đ/tháng kể từ tháng 6/2021 cho đến khi con chung tròn 18 tuổi. Trong thời gian anh S không có mặt tại Việt Nam tạm giao cháu Gia B cho ông Nguyễn Văn X chăm sóc, nuôi dưỡng.

Chị T được quyền thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án mà người phải thi hành án không thi hành các khoản tiền trên thì phải chịu lãi đối với số tiền chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá mức lãi suất quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự. Nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của bộ luật dân sự.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên không xem xét.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Minh T phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm và 300.000đ án phí cấp dưỡng tiền nuôi con, được đối trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) chị đã nộp, theo biên lai thu số AA/2018/0005809 ngày 30 tháng 3 năm 2021 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương. Chị T đã nộp đủ án phí ly hôn.Chị T còn phải nộp 300.000đ án phí cấp dưỡng tiền nuôi con.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị Minh T, ông Nguyễn Văn X được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Anh Nguyễn Văn S được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

140
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 75/2021/HNGĐ-ST ngày 14/06/2021 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung

Số hiệu:75/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về