Bản án 75/2020/HS-ST ngày 30/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T G, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 75/2020/HS-ST NGÀY 30/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 9 năm 2020, tại phòng xét xử Tòa án nhân dân huyện TG, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 67/2020/TLST - HS ngày 03 tháng 9 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 65/2020/QĐXXST - HS ngày 04 tháng 9 năm 2020. Quyết định hoãn phiên tòa số: 01/2020/HSST-QĐ ngày 17 tháng 9 năm 2020 và Thông báo về việc mở lại phiên tòa số: 67/2020/TB-TA ngày 21 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ tên: Tô Thế Th; tên gọi khác: Không; sinh năm 1968; Tại: huyện PT, tỉnh Lai Châu. Nơi cư trú: Khối ĐT, thị trấn TG, huyện TG, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Tô Thế Đ (đã chết) và bà Kim Thị Th, sinh năm 1940; Bị cáo có vợ: Hoàng Thị M, sinh năm 1969; Bị cáo có 01 người con, sinh năm 1994; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Bị cáo chưa bị Tòa án nào xét xử và cũng chữa bị cơ quan nhà nước nào xử phạt vi phạm hành chính; Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 07/6/2020 đến ngày 16/6/2020 và bị tạm giam từ ngày 16/6/2020 đến nay tại Nhà tạm giữ Công an huyện TG. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Bà Tô Kim Ph, sinh năm 1963; Trú tại: Khối ĐT, thị trấn TG, huyện TG, tỉnh Điện Biên (Có mặt).

- Chị Quàng Thị T, sinh năm 1978; Trú tại: Bản N, xã QC, huyện TG, tỉnh Điện Biên (Vắng mặt).

* Người chứng kiến: Anh Lò Văn C, sinh năm 1987; Trú tại: bản S, xã QC, huyện TG, tỉnh Điện Biên (Có mặt).

* Người tham gia tố tụng khác:

- Ông Lò Văn D, Điều tra viên thuộc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện TG, tỉnh Điện Biên (Có mặt).

- Ông Mùa A D1, Cán bộ điều tra thuộc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện TG, tỉnh Điện Biên (Có mặt).

- Ông Lò Văn Th1, Cán bộ điều tra thuộc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện TG, tỉnh Điện Biên (Có mặt).

- Ông Vàng A T1, Phó trưởng Công an xã QC, huyện TG, tỉnh Điện Biên (Có mặt).

- Ông Sùng A C1, Cán bộ điều tra thuộc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện TG, tỉnh Điện Biên (Vắng mặt có lý do).

- Ông Nguyễn Thúc N, Cán bộ điều tra thuộc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện TG, tỉnh Điện Biên (Vắng mặt có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 20 phút, ngày 07/6/2020, Tô Thế Th một mình đi xe máy nhãn hiệu Sirius màu sơn đỏ đen biển kiểm soát 27Y1-041.77 từ nhà đến khu vực bản N, xã QC, huyện TG để tìm mua Heroine sử dụng. Khi đi đến bản N, xã QC thì Th gặp Quàng Thị T, sinh năm 1978, trú tại bản N, xã QC, huyện TG đang đứng ở dọc đường. Khi gặp T, Th liền hỏi và mua của T được 01 gói Heroine được gói bằng nilon màu trắng với giá 350.000đ. Việc trao đổi mua bán Heroine chỉ có Th và T biết với nhau, ngoài ra không ai biết. Sau khi mua được Heroine Th cầm gói Heroine trên tay phải rồi điều khiển xe máy đi về nhà. Khi đi đến khu vực cổng trường Tiểu học xã QC thuộc bản Nát, xã QC thì bị tổ công tác Công an huyện TG phát hiện bắt quả tang, thu giữ trong tay phải của Th 01 (một) gói nilon màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng nghi Heroine, Th khai nhận đó là Heroine và tạm giữ 01 xe máy nhãn hiệu Sirius màu sơn đỏ đen biển kiểm soát 27Y1-041.77; 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu trắng, đã cũ. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng đối với bị cáo. Sau đó Th được áp giải đến Cơ quan CSĐT Công an huyện TG để điều tra xác minh làm rõ hành vi của bị cáo. Cùng ngày Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện TG đã thi hành lệnh khám xét khẩn cấp đối với Quàng Thị T, qua khám xét thu giữ được của T 02 gói Heroine có khối lượng 0,05 gam.

Tại biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng ngày 08/6/2020 đã xác định vật chứng nghi Heroine thu giữ của Tô Thế Th có khối lượng 0,63 gam, trích 0,06 gam làm mẫu vật gửi giám định, vật chứng còn lại có khối lượng 0,57 gam.

Tại bản kết luận giám định số: 624/GĐ - PC09 ngày 03/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của Tô Thế Th gửi giám định là ma túy: Loại Heroine (Heroine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 9, Mục IA, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ - CP ngày 15/5/2018).

Tại phiên tòa ngày 17/9/2020, trong phần tranh tụng bị cáo cho rằng Viện kiểm sát truy tố bị cáo là không đúng, bị cáo khẳng định mình không có tội, gói Heroine Công an thu giữ không phải là của bị cáo, đó là gói ma túy cán bộ Mùa A D1 nhét vào tay của bị cáo khi khám người bị cáo. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử triệu tập Điều tra viên là ông Lò Văn D; những người khác gồm ông Nguyễn Thúc N, ông Mùa A D1, ông Vàng A T1, ông Lò Văn Th1, ông Sùng A C1; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Quàng Thị T và người chứng kiến là ông Lò Văn C đến phiên tòa để trình bày các vấn đề liên quan đến vụ án. Hội đồng xét xử sau khi thảo luận xét thấy việc triệu tập những người trên là cần thiết cho việc giải quyết vụ án nên đã quyết định hoãn phiên tòa để đảm bảo quyền lợi cho bị cáo và để giải quyết vụ án một cách khách quan, không oan sai, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Tại phiên tòa mở lại vào ngày 30/9/2020 trong phần tranh tụng bị cáo vẫn không thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã nêu, bị cáo cho rằng mình không có tội, Viện kiểm sát truy tố bị cáo không đúng. Gói Heroine Công an thu giữ không phải của bị cáo, đó là gói Heroine cán bộ Mùa A D1 nhét vào tay của bị cáo để ép bị cáo phải nhận khi khám người bị cáo. Ngoài lời khai của bị cáo tại phiên tòa này thì bị cáo không có tài liệu chứng cứ gì để chứng minh mình không có tội.

* Ý kiến của người chứng kiến là anh Lò Văn C: Vào khoảng 20 giờ 45 phút, ngày 07/6/2020, anh đang ở khu vực bản Nát, xã QC, huyện TG thì Công an huyện TG mời đến chứng kiến việc lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với bị cáo. Anh có nghe bị cáo khai nhận đã tự giác lấy từ tay phải ra giao nộp cho tổ công tác 01 gói nilon màu trắng, bên trong có chứa chất bột màu trắng, bị cáo khai nhận đó là Heroine bị cáo cất giấu mục đích để sử dụng. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữa vật chứng là gói Heroine của bị cáo. Ngoài ra có thu giữ của bị cáo 01 xe máy BKS 27Y1 – 041.77 và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SamSung, vỏ màu trắng. Vào khoảng 21 giờ 25 phút anh có chứng kiến tổ công tác niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ của bị cáo là 01 gói Heroine và chứng kiến tổ công tác thi hành quyết định áp giải đối với bị cáo.

* Ý kiến của những người tham gia tố tụng khác:

- Ông Lò Văn Th1 (Cán bộ điều tra): Vào khoảng 20 giờ 30 phút ngày 07/6/2020 tổ công tác gồm có tôi, anh Sùng A C1, anh Mùa A D1, anh Trương Xuân Hân, Nguyễn Thúc N và anh Lò Văn D đang làm nhiệm vụ tại khu vực Bản Nát, xã QC phát hiện bị cáo đang điều khiển xe máy BKS 27Y1 – 041.77, Sirius màu sơn đỏ đen đang lưu thông trên đường có biểu hiện nghi vấn liên quan đến tệ nạn ma túy, Tổ công tác đã T hành dừng xe để kiểm tra. Quá trình kiểm tra tổ công tác yêu cầu bị cáo có gì liên quan đến ma túy thì tự giác giao nộp. Khi nghe chúng tôi yêu cầu bị cáo đã tự giác lấy từ tay phải ra giao nộp cho tổ công tác 01 gói nilon màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng nghi Heroine, bị cáo khai nhận đó là Heroine của bị cáo cất giấu nhằm mục đích sử dụng. Sau đó tổ công tác đã mời người chứng kiến, chính quyền địa phương, T hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang thu giữ vật chứng là 01 gói nilon màu trắng nghi Heroine của bị cáo và tạm giữ của bị cáo 01 xe máy BKS 27Y1 – 041.77 màu đỏ, đen, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SamSung, vỏ màu trắng. Đến 21 giờ 25 phút ngày 07/6/2020 chúng tôi đã niêm phong vật chứng là 01 gói nilon màu trắng nghi Heroine thu giữ của bị cáo và thi hành quyết định áp giải bị cáo. Tôi cũng là người trực tiếp lấy lời khai của bị cáo (BL10, 11), nghe biên bản ghi lời khai, công nhận và cam đoan lời khai của mình là đúng, không bị đánh đập ép buộc gì. Việc bị cáo khai tại phiên tòa hôm nay là gói Heroine Công an thu giữ không phải của bị cáo là bị cáo khai không đúng, cố tình trốn tránh trách nhiệm hình sự.

- Ông Vàng A T1 (Phó trưởng Công an xã QC): Bản thân tôi đại diện chính quuyền địa phương trực tiếp tham gia chứng kiến lập biên bản bắt người phạm tội quả tang thu giữ 01 gói nilon màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng nghi Heroine đối với Tô Thế Th như anh Lò Văn Th1 đã khai. Bị cáo khai khi tổ công tác T hành dừng xe kiểm tra bị cáo đã tự giác lấy từ tay phải ra giao nộp cho tổ công tác, bị cáo khai nhận đó là Heroine của bị cáo cất giấu nhằm mục đích sử dụng. Chúng tôi đã niêm phong vật chứng là 01 gói nilon màu trắng nghi Heroine thu giữ của bị cáo và tạm giữ của bị cáo 01 xe máy BKS 27Y1 – 041.77 và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SamSung, đồng thời thi hành quyết định áp giải bị cáo. Việc bị cáo khai gói Heroine Công an thu giữ không phải của bị cáo là cố tình không nhận tội.

- Ông Lò Văn D (Điều tra viên): Là điều tra viên thụ lý chính điều tra vụ án, kể từ khi được phân công đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật trong việc điều tra vụ án. Quá trình điều tra xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ tôi đã trực tiếp tham gia mở niêm phong xác định khối lượng ma túy thu giữ của bị cáo, việc xác định khối lượng ma túy diễn ra đúng như biên bản thể hiện, khối lượng ma túy thu giữ của bị cáo khi cân là 0,63 gam Heroine. Quá trình T hành ghi lời khai, T hành hỏi cung, cho bị cáo viết bản tự khai và đối chất đều diễn ra khách quan, trong tình trạng sức khỏe bị cáo bình thường, tỉnh táo, minh mẫn. Sau khi hỏi cung, ghi lời khai bị cáo đều được nghe đọc lại, bị cáo đều cam đoan về lời khai của mình, bị cáo khai không bị ép cung, mớm cung, hay dùng nhục hình, bản thân bị cáo cũng thừa nhận lại toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo, bị cáo không kêu oan. Do đó việc bị cáo không nhận tội tại phiên tòa là không thành khẩn, cố tình khai báo gian dối để nhằm đánh lạc hướng cơ quan T hành tố tụng nên đề nghị HĐXX xem xét.

- Ông Mùa A D1 (Cán bộ điều tra): Bản thân tham gia trong tổ công tác khi bắt bị cáo Th, khi lập biên bản bắt người phạm tôi quả tang thì có anh Lò Văn Th1, anh Sùng A C1 và có mời người chứng kiến và chính quyền địa phương là anh Vàng A T1 đến tham gia, khi bắt giữ có thu giữ 01 gói nilon màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng nghi Heroine, bị cáo khai nhận đó là Heroine của bị cáo cất giấu nhằm mục đích sử dụng. Sau đó tôi là người trực tiếp thi hành quyết định áp giải bị cáo. Việc bị cáo khai gói Heroine Công an thu giữ đó là gói Heroine tôi nhét vào tay của bị cáo khi khám người bị cáo là không đúng, bị cáo không thành khẩn cố tình khai gian dối để trốn tránh trách nhiệm.

- Ông Nguyễn Thúc N (Cán bộ điều tra): Vắng mặt có lý do, trong đơn xin vắng mặt ông Nam trình bày: Tôi là cán bộ tham gia cùng tổ công tác Công an huyện TG trong quá trình bắt quả tang bị cáo, thu giữ của bị cáo 01 gói Heroine cùng một số vật chứng khác, việc bắt quả tang, thu giữ vật chứng là theo đúng quy định của pháp luật, có người chứng kiến và đại diện chính quyền địa phương tham gia việc lập biên bản, đảm bảo khách quan. Quá trình thực hiện nhiệm vụ trong giai đoạn tạm giữ, giai đoạn điều tra vụ án của tôi đều diễn ra khách quan, vô tư, đúng chức trách nhiệm vụ được phân công và hoàn toàn đúng quy định của pháp luật. Ông Nam cũng cam đoan lời khai của ông là đúng sự thật.

- Ông Sùng A C1 (Cán bộ điều tra): Vắng mặt có lý do, trong đơn xin xét xử vắng mặt ông Của trình bày: Bản thân tôi trực tiếp tham gia bắt quả tang và cùng T hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Tô Thế Th. Khi tổ công tác T hành dừng xe kiểm tra bị cáo đã tự giác lấy từ tay phải ra giao nộp cho tổ công tác 01 gói nilon màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng nghi Heroine, bị cáo khai nhận đó là Heroine của bị cáo cất giấu nhằm mục đích sử dụng. Sau đó tổ công tác đã mời người chứng kiến, chính quyền địa phương, T hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang thu giữ vật chứng là 01 gói nilon màu trắng nghi Heroine của bị cáo và tạm giữ của bị cáo 01 xe máy BKS 27Y1 – 041.77 màu đỏ đen, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SamSung, vỏ màu trắng. Đến 21 giờ 25 phút ngày 07/6/2020 chúng tôi đã niêm phong vật chứng là 01 gói nilon màu trắng nghi Heroine thu giữ của bị cáo và thi hành quyết định áp giải bị cáo. Quá trình thực hiện nhiệm vụ của tôi diễn ra khách quan, vô tư, đúng chức trách nhiệm vụ được phân công và đúng quy định của pháp luật. Ông Của cũng cam đoan lời khai của ông là đúng sự thật.

* Ý kiến của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

- Ý kiến của chị Quàng Thị T vắng mặt không có lý do: Trong quá trình điều tra chị T cũng được cơ quan điều tra triệu tập đến để đối chất giữa chị với bị cáo, chị khẳng định không quen biết bị cáo và cũng chưa gặp bị cáo bao giờ. Chị khẳng định không bán và cũng không có Heroine để bán cho bị cáo vào chiều ngày 07/6/2020 như bị cáo khai. Việc bị cáo khai mua ma túy của chị là không đúng sự thật.

- Ý kiến của bà Tô Kim Phượng: Đề nghị Hội đồng xét xử xém xét trả lại chiếc xe cho bà vì bà cho bị cáo mượn chiếc xe đi chở cám gà và làm phương tiện đi lại sinh hoạt hàng ngày, bà không biết bị cáo sử dụng làm phương tiện đi mua ma túy. Tại phiên tòa bà có xuất trình hình ảnh chụp được tổ công tác T hành bắt quả tang bị cáo và có khai gia đình có ghi âm được việc cán bộ điều tra Nguyễn Thúc N gọi điện cho gia đình bà để đặt vấn đề về vụ án liên quan đến hành vi của bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đánh giá.

Tại bản Cáo trạng số: 67/CT-VKS-TG, ngày 03/9/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TG, tỉnh Điện Biên đã truy tố bị cáo Tô Thế Th về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa trong phần tranh luận đại diện VKSND huyện TG, tỉnh Điện Biên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo từ 18 tháng đến 24 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 0,57 gam Heroine; Trả lại cho chị Tô Kim Phượng 01 xe máy nhãn hiệu Sirius màu sơn đỏ đen biển kiểm soát 27Y1-041.77; Trả lại có bị cảo 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu trắng, đã cũ; Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Trong phần tranh luận bị cáo vẫn khẳng định mình không có tội, gói ma túy thu giữ không phải là của bị cáo, ngoài ra không có ý kiến thêm gì để tự bào chữa cho mình và không có ý kiến tranh luận gì thêm với đại diện Viện kiểm sát về bản luận tội. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến tranh luận gì.

Lời nói sau cùng của bị cáo đề nghị hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo, ngoài ra bị cáo không có ý kiến gì khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi của bị cáo: Nhận thấy bị cáo cho rằng Viện kiểm sát truy tố bị cáo là không đúng, bị cáo khẳng định mình không có tội, gói Heroine Công an thu giữ không phải là của bị cáo, đó là gói ma túy cán bộ Mùa A D1 nhét vào tay của bị cáo để ép bị cáo phải nhận khi khám người bị cáo. Nhưng ngoài lời khai của bị cáo tại phiên tòa thì bị cáo không có tài liệu, chứng cứ gì để chứng minh bị cáo không có tội.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Tô Kim Phượng có cung cấp cho Hội đồng xét xử hình ảnh chụp được tổ công tác khi bắt quả tang bị cáo nhưng hình ảnh đó không thể hiện rõ được bị cáo bị đánh đập và bị ép nhét gói ma túy vào tay như bị cáo khai và việc bà Phượng khai gia đình bà đã ghi âm được cuộc gọi do cán bộ Nguyễn Thúc N gọi điện thoại đến đặt vấn đề về vụ án liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo. Nhưng ngoài hình ảnh chụp được và lời khai trên của bà Phượng thì bà Phượng cũng không cung cấp được cho tòa chứng cứ gì khác để chứng minh bị cáo không có tội.

Ý kiến của những người tham gia tố tụng khác đều khẳng định vào khoảng 20 giờ 30 phút ngày 07/6/2020 bị cáo bị bắt quả tang khi đang cất trong tay phải 01 gói Heroine được gói bằng nilon màu trắng, bị cáo cũng khai nhận đó là Heroine của bị cáo cất giấu nhằm mục đích sử dụng. Việc bị cáo khai gói Heroine Công an thu giữ do cán bộ điều tra nhét vào tay bị cáo, không phải của bị cáo là bị cáo khai không thành khẩn, cố tình không nhận tội để trốn tránh trách nhiệm hình sự. Ông Lò Văn D điều tra viên khẳng định là người thụ lý chính điều tra vụ án, kể từ khi được phân công đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật trong việc điều tra vụ án. Quá trình T hành ghi lời khai, T hành hỏi cung, cho bị cáo viết bản tự khai và đối chất đều diễn ra khách quan, trong tình trạng sức khỏe bị cáo bình thường, tỉnh táo, minh mẫn. Sau khi hỏi cung, ghi lời khai bị cáo đều được nghe đọc lại, bị cáo đều cam đoan về lời khai của mình, bị cáo khai không bị ép cung, mớm cung, hay dùng nhục hình, bản thân bị cáo cũng thành khẩn thừa nhận lại toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo, bị cáo không kêu oan. Trong quá trình điều tra bị cáo khai gói Heroine thu giữ là của bị cáo, bị cáo mua của Quàng Thị T vào chiều ngày 07/6/2020, mặc dù qua đối chất T không thừa nhận bán ma túy cho bị cáo, nhưng việc bị cáo khai như vậy và cùng đối chiếu với lời khai tại phiên tòa Hội đồng xét xử khẳng định bị cáo không thành khẩn khai báo, cố tình khai báo quanh co để nhằm đánh lạc hướng cơ quan T hành tố tụng.

Như vậy, Hội đồng xét xử thấy đủ căn cứ xác định bị cáo có tội và khẳng định vào hồi 20 giờ 30 phút, ngày 07/6/2020, tại đường thuộc khu vực bản Nát, xã QC, huyện TG, tỉnh Điện Biên. Tô Thế Th bị tổ công tác Công an huyện TG bắt quả tang, thu giữ giữ trong tay phải của Th đang cầm 01 gói Heroine được gói bằng nilon màu trắng có khối lượng 0,63 gam. Số Heroine trên bị cáo khai trong quá trình điều tra là cất giấu nhằm mục đích để sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị bắt. Mục đích thực hiện hành vi phạm tội của bị cáo nhằm thỏa mãn nhu cầu sử dụng ma túy. Hành vi của bị cáo đã được chứng minh tại phiên tòa và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang (BL01-02), biên bản mở niêm phong xác định khối lượng và lấy mẫu giám định (BL34- 35), Kết luận giám định (BL106), Kết luận điều tra (BL139-141), các bản cung có trong hồ sơ vụ án (BL85-88, 114-115), cũng như Cáo trạng đã truy tố (BL142-145), các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, lời khai của người chứng kiến, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, điều tra viên, những người tham gia tố tụng khác và lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra (BL 10-11, 48-49 và 116). Với hành vi và khối lượng Heroine bị thu giữ thì bị cáo đã phạm vào tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Bị cáo đã thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp. Cáo trạng truy tố bị cáo là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo là người có đủ năng lực để chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội của bị cáo.

[2]. Về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội thì hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy. Hành vi của bị cáo còn tiếp tay cho những kẻ chuyên buôn bán các chất ma túy tồn tại và phát triển, là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội trên địa bàn huyện TG nói riêng và tỉnh Điện Biên nói chung. Tội phạm mà bị cáo vi phạm là tội phạm nghiêm trọng, vì vậy hành vi của bị cáo cần phải bị xử lý nghiêm minh trước pháp luật.

[3]. Về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[4]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu. Sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, nhưng tại phiên tòa bị cáo lại không thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên không được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo có bố đẻ và mẹ đẻ được Nhà nược tặng Huân, huy chương kháng chiến nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5]. Về nhân thân: Hội đồng xét xử nhận thấy bị cáo từ nhỏ sinh ra và lớn lên tại huyện PT, tỉnh Lai Châu. Năm 1993 kết hôn với Hoàng Thị Mận và có 01 người con, sử dụng ma túy từ năm 2009. Bản thân không chịu tu dưỡng rèn luyện để chở thành người chồng, người cha có ích cho gia đình và xã hội mà lại sử dụng ma túy, việc bị cáo mua ma túy xong cất giấu nhằm mục đích sử dụng đã thể hiện sự công khai coi thường pháp luật của bị cáo. Với hành vi của bị cáo cần áp dụng hình phạt tù để đảm bảo tính nghiêm minh, răn đe và giáo dục bị cáo, đồng thời để bị cáo có điều kiện cai nghiện ma túy.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự nhưng bị cáo là người nghiện ma túy, không có thu nhập ổn định nên không có khả năng thi hành, do vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7]. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVHQ 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[8]. Biện pháp tư pháp và việc xử lý vật chứng:

- 0,63 gam Heroine, đã trích 0,06 gam làm mẫu vật gửi giám định, còn lại 0,57 gam. Vật chứng còn lại 0,57 gam Heroine là vật thuộc loại nhà nước cấm tàng trữ cần tịch thu tiêu hủy theo điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- 01 xe máy nhãn hiệu Sirius màu sơn đỏ đen biển kiểm soát 27Y1-041.77, bị cáo đã dùng chiếc xe này làm phương tiện để đi mua bán ma túy theo quy định sẽ bị tịch thu sung quỹ nhà nước. Nhưng qua điều tra xác minh và tại phiên tòa bị cáo và bà Tô Kim Ph đều khai nhận chiếc xe máy nêu trên là của bà Ph, do khách đến cầm cố không chuộc lại nên bà Ph cho bị cáo mượn để làm phương tiện phục vụ sinh hoạt, bà Ph không biết bị cáo sử dụng làm phương tiện đi mua ma túy nên cần trả lại cho bà Tô Kim Ph là phù hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu trắng, đã cũ là của bị cáo, bị cáo khai sử dụng để liên lạc với gia đình, không sử dụng để để trao đổi mua bán ma túy nên cần trả lại cho bị cáo theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[9]. Các vấn đề khác: Đối với Quàng Thị T mà bị cáo khai là người đã bán Heroine cho bị cáo. Căn cứ vào lời khai của bị cáo ngày 07/6/2020 Cơ quan cảnh sát điều tra đã thi hành lệnh khám xét khẩn cấp nơi ở của Quàng Thị T thu giữ 0,05 gam Heroine, T khai nhận số Heroine đó T mua một người đàn ông không biết tên, tuổi địa chỉ. Sau đó T được áp giải đến Cơ quan CSĐT Công an huyện TG để điều tra làm rõ và T hành đối chất giữa T với bị cáo nhưng T không thừa nhận việc bán Heroine cho bị cáo như bị cáo đã khai nên không có đủ căn cứ để xác minh làm rõ hành vi Mua bán trái phép chất ma túy. Hành vi tàng trữ 0,05 gam Heroine của T chưa tới mực truy cứu trách nhiệm hình sự nên Công an huyện TG ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền đối với T là phù hợp, vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

[10]. Đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện TG, tỉnh Điện Biên về hình phạt, tội danh, án phí và vật chứng Heroine là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[11]. Về hành vi và các Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện TG, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện TG, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc có khiếu nại gì về hành vi, Quyết định của các Cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của các Cơ quan T hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 38, điểm c khoản 1 Điều 249; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự;

Căn cứ điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331, 332, 333 Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVHQ 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án .

Tuyên xử:

1. Về tội danh: Bị cáo Tô Thế Th phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Tô Thế Th 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ là ngày 07/6/2020.

3. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng Án phí Hình sự sơ thẩm.

4. Biện pháp tư pháp và việc xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy 0,57 gam Heroine là vật chứng còn lại của vụ án (Vật chứng còn lại đựng trong 01 phong bì màu trắng, các mép đều được dán kín, bên trong có chứa 0,57 gam Heroine đựng trong một túi nilon màu trắng gắn kín lại).

- Trả lại 01 xe máy nhãn hiệu Sirius màu sơn đỏ đen biển kiểm soát 27Y1- 041.77 cho bà Tô Kim Phượng, sinh năm 1963; Trú tại: Khối Đồng Tâm, thị trấn TG, huyện TG, tỉnh Điện Biên.

- Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu trắng, đã cũ.

(Toàn bộ vật chứng của vụ án đã được cơ quan Điều tra Công an huyện TG, tỉnh Điện Biên chuyển giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện TG, tỉnh Điện Biên theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 03/9/2020).

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án. Bà Tô Kim Ph có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (30/9/2020); Chị Quàng Thị T có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án chính hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 75/2020/HS-ST ngày 30/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:75/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuần Giáo - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về