TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỌ XUÂN - TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 75/2020/HSST NGÀY 26/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 26 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện thọ xuân; Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, thụ lý số: 84/2020/HSST ngày 11 tháng 11 năm 2020. theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 78/2020/HSST ngày 13/11/2020; đối với bị cáo:
Họ và tên: Trần Văn H - Sinh năm 1963.
Nơi đăng kí hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn L - xã N - huyện T - tỉnh Thanh Hóa.
Nghề nghiệp: Lao động tự do;Trình độ học vấn: 10/10; Tôn giáo: Không Con ông: Trần Văn H (tên gọi khác: Trần H ) và bà: Nguyễn Thị H ; Vợ: Trần Thị T. Gia đình có 05 anh em, bị cáo là con thứ 2.
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị áp dụng biện pháp Tạm giữ, Tạm giam từ ngày 04/9/2020 đến nay. Hiện bị can đang bị tạm giam tại Trại Tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào hồi 11 giờ 30 phút ngày 04/9/2020 Tổ công tác của Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Thanh Hóa đang làm nhiệm vụ tại khu 6, thị trấn Lam Sơn, huyện Thọ Xuân, thì phát hiện Trần Văn H sinh năm 1963, trú tại thôn L, xã N, huyện Thường Xuân, đang điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 36 D1-434.12 có biểu hiện nghi vấn, nên Tổ công tác yêu cầu H dừng xe để kiểm tra, thấy vậy H liền vứt xuống đất 01 gói cà phê Trung Nguyên G7, bên trong có chứa 19 viên nén màu hồng, hình tròn, ngay sau đó Tổ công tác khống chế bắt giữ đối với H và niêm phong 19 viên nén màu hồng vào phong bì ký hiệu M, thu giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu Wave Alpha biển kiểm soát 36D1-434.12, tiền và các đồ vật có liên quan.
Quá trình điều tra Trần Văn H khai nhận: Vào cuối tháng 7 năm 2020, H mua 25 viên Hồng Phiến của một người đàn ông khoảng 35 tuổi ở xã Lương Sơn, huyện Thường Xuân với mục đích để sử dụng. Sau đó H sử dụng 05 viên và cho một người đàn ông không quen biết 01 viên Hồng phiến, còn lại 19 viên H đem cất giấu cạnh bờ tường thuộc đường dân sinh khu 6, thị trấn Lam Sơn, huyện Thọ Xuân; đến ngày 04/9/2020 H đi xe mô tô từ nhà đến lấy Hồng Phiến về để sử dụng thì bị bắt quả tang.
Ngày 04/9/2020, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Thanh Hóa ban hành Quyết định trưng cầu giám định số 3679/CSMT, giám định đối với mẫu vật được niêm phong trong phong bì ký hiệu M để xác định loại và khối lượng ma túy.
Tại bản kết luận giám định số:2510/PC09 ngày 08/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa: 19 viên nén hình trụ tròn màu hồng trong phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 1,940g loại Methamphetamine.
Đối với người đàn ông bán ma túy cho Trần Văn H, quá trình điều tra không xác minh được con người cụ thể vì vậy không đủ căn cứ để xử lý.
Về vật chứng và đồ vật có liên quan gồm:
+ Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Wave Alpha biển kiểm soát 36D1-434.12; quá trình điều tra xác minh chủ sở hữu hợp pháp là anh Trần Chí T sinh năm 2001, anh T không biết Trần Văn H sử dụng xe mô tô làm phương tiện phục vụ cho việc tàng trữ trái phép chất ma túy, nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh + 01 (một) phong bì niêm phong do Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành, bên trong có chứa 1,754 g Methamphetamine sau giám định;.Đối với 01 ví giả da màu đen; 01 căn cước công dân số 038063001094 và 01 giấy phép lái xe mô tô số 370174040887 mang tên Trần Văn Hùng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia đã qua sử dụng; số tiền 70.000 đồng, Hiện đang bảo quản tại kho vật chứng của Công an huyện Thọ Xuân, được chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thọ Xuân, để đảm bảo việc xét xử và thi hành án theo quy định.
Tại Bản cáo trạng số: 77/CT-VKS-HS ngày 07/11/11020, Viện Kiểm Sát nhân dân huyện Thọ Xuân đã truy tố bị cáo: Trần Văn H về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ Luật Hình sự.
Trong phần luận tội, đại diện Viện Kiểm sát giữ nguyên quyền công tố, đề nghị áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 để xử phạt Trần Văn H từ 16 tháng đến 19 tháng tù và đề nghị xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.
Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của bị cáo, của những người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; Không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tội danh và Điều luật áp dụng: Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Trần Văn H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng. Trần Văn H đã có hành vi tàng trữ 01 gói có vỏ ngoài là túi cà phê Trung Nguyên G7, bên trong có chứa 19 viên nén màu hồng, hình tròn Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thọ Xuân đã thu giữ và tiến hành trưng cầu giám định đối với số ma túy đã thu giữ. Tại bản kết luận giám định số: 2510/PC09 ngày 08/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa: 19 viên nén hình trụ tròn màu hồng trong phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 1,940g loại Methamphetamine. Bị cáo khai nhận mục đích tàng trữ số ma túy trên để sử dụng.
Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với tang vật thu được, lời khai người làm chứng, cùng các chứng cứ khác có trong hồ sơ cũng như các tài liệu chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận hành vi phạm tội của bị cáo Trần Văn Hùng đã phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 249 BLHS là hoàn toàn đúng pháp luật.
[3]Xét tính chất vụ án và xử lí: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền quản lí của Nhà nước về các chất ma túy, gây mất trật tự trị án ở địa phương, ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Ma túy còn là nguyên nhân làm gia tăng các loại tội phạm khác. Vì vậy cần xử lí nghiêm, bắt bị cáo cách ly ngoài xã hội một thời gian nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung. Do bị cáo có hoàn cảnh khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung.
[4] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo thì thấy rằng: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo; có bố đẻ và mẹ đẻ được thưởng huân chương kháng chiến chống Mỹ nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 BLHS. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
[5] Xử lý vật chứng của vụ án: Số vật chứng và các đồ vật có liên quan đang được quản lý theo quy định của pháp luật gồm: 01 (một) phong bì niêm phong do Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành, bên trong có chứa 1,754 g Methamphetamine sau giám định; 01 ví giả da màu đen; 01 căn cước công dân số 038063001094 và 01 giấy phép lái xe mô tô số 370174040887 mang tên Trần Văn Hùng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia đã qua sử dụng; số tiền 70.000 đồng, Hiện đang bảo quản tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thọ Xuân. Xét thấy số ma túy 1,754 g Methamphetamine còn lại sau giám định là vật cấm tàng trữ nên tịch thu tiêu hủy. Còn lại 01 ví giả da màu đen; 01 căn cước công dân số 038063001094 và 01 giấy phép lái xe mô tô số 370174040887 mang tên Trần Văn Hùng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia đã qua sử dụng; số tiền 70.000 là những đồ vật và tiền của bị cáo, không liên quan đến phạm tội nên trả lại cho bị cáo.
[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Áp dụng: Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 BLHS:
Xử phạt: Bị cáo Trần Văn H 18 (mười tám) tháng tù, Hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam (từ ngày 04/9/2020).
Xử lý vật chứng: Căn cứ Điểm a khoản 2 và Điểm a khoản 3 Điều 106 BLTTHS:
Tuyên tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong do Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành, bên trong có số lượng 1,754 g Methamphetamine còn lại sau giám định.
Tuyên trả lại 01 ví giả da màu đen; 01 căn cước công dân số 038063001094 và 01 giấy phép lái xe mô tô số 370174040887 mang tên Trần Văn H, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia đã qua sử dụng; số tiền 70.000đ.
Số vật chứng và tài sản trên được thực hiện theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số: 09 ngày 16/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thọ Xuân.
Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 BLTTHS và Điều 23 Nghị quyết số: 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; buộc bị cáo Trần Văn H phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ nhà nước.
Trường hợp bản án được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bản án 75/2020/HSST ngày 26/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 75/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thọ Xuân - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/11/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về