TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ ĐÔNG TRIỀU, TỈNH QUẢNG NINH
BẢN ÁN 75/2020/HSST NGÀY 22/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 22 tháng 9 năm 2020, tại phòng xử án Tòa án nhân dân thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 74/2020/TLST - HS ngày 07 tháng 9 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 75/2020/QĐXXST- HS ngày 10 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Đình L, tên gọi khác: không có; sinh ngày 21-5-1999, tại ĐT, QN. Nơi cư trú: khu TD, phường HĐ, thị xã ĐT, tỉnh QN; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đình A và bà Trần Thị T; vợ, con:
Chưa có; tiền án, tiền sự: Chưa có; bị cáo bị bắt quả tang ngày 26-5-2020, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Đông Triều, có mặt tại phiên tòa.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Phùng Thị Ng; Sinh năm 1994; Nơi cư trú: Khu MX, phường H, thị xã ĐT, tỉnh QN. Vắng mặt.
*Người chứng kiến:
1. Anh Đồng Văn Th; Sinh năm 1977; Nơi cư trú: Khu BL, phường H, thị xã ĐT, tỉnh QN. Vắng mặt.
2. Anh Phạm Thành L; Sinh năm 1972; Nơi cư trú: Khu Đ, phường H, thị xã ĐT, tỉnh QN. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 18 giờ 20 phút, ngày 26-5-2020, tại khu vực trước cổng quán Karaoke Sông Đạm, thuộc khu Đ, phường H, thị xã ĐT, tỉnh QN, qua công tác tuần tra Công an thị xã ĐT phát hiện bắt quả tang Nguyễn Đình L có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Khi thấy lực lượng Công an, L ném 04 (bốn) viên nén hình trụ tròn, màu hồng (nghi là ma túy) đang cầm trong lòng bàn tay trái xuống đất cách vị trí L đứng khoảng 5 mét (phía bên phải cổng của quán Karaoke Sông Đạm). Vật chứng thu giữ gồm: 04 (bốn) viên nén hình trụ tròn màu hồng; 01 điện thoại di động Iphne 7 plus; 01 (một) xe mô tô Liberty màu trắng (không gắn biển kiểm soát).
Tại bản kết luận giám định số 573/KLGĐ ngày 01-6-2020, của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: 04 (bốn) viên nén hình trụ tròn màu hồng thu giữ của Nguyễn Đình L là ma túy, loại MDMA, tổng khối lượng 1,413g (một phẩy bốn một ba) gam.
Tại Cáo trạng số: 82/CT- VKS - ĐT ngày 04-9-2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Đông Triều truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Đông Triều tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo theo bản Cáo trạng. Sau khi xem xét đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, đại diện Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo từ 21 đến 24 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 26-5-2020.
- Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người không có nghề nghiệp, không có tài sản riêng nên đề nghị HĐXX không áp dụng.
- Về xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong hoàn lại sau giám định số 573/KLGĐ ngày 01-6-2020 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, còn nguyên vẹn; 01 mảnh giấy ăn màu trắng; tịch thu sung Ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động iPhone 7 plus màu đen.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì đối với luận tội và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.
Bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra Công an thị xã Đông Triều, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đông Triều, kiểm sát viên thu thập và hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về các tài liệu, chứng cứ cũng như hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập và hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tội danh:
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Đình L đều khai nhận: Do có nhu cầu sử dụng ma túy, nên ngày 21-5-2020, L đã gọi điện và thỏa thuận mua của một người đàn ông tên là M “còi” (không rõ lai lịch, địa chỉ) ở khu vực phường M, thị xã ĐT 04 (bốn) viên ma túy tổng hợp với giá 180.000 đồng/01 viên, nhằm mục đích để sử dụng. Khoảng 18 giờ ngày 26-5-2020 L cầm 04 (bốn) viên ma túy trong lòng bàn tay trái và tay phải điều khiển xe mô tô mục đích đi đến quán Karaoke Sông Đạm, thuộc phường H để thuê phòng sử dụng ma túy, thì bị Công an phát hiện nên L ném số ma túy trên xuống đất sau đó bị bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng.
Những người chứng kiến là anh Đồng Văn Th và anh Phạm Thành L vắng mặt tại phiên tòa nhưng có lời khai thể hiện: Khoảng 18 giờ 15 phút, ngày 26-5-2020, các anh đang ngồi uống nước tại quán Karaoke sông Đạm thuộc khu Đ, phường H, thị xã ĐT thì được lực lượng Công an mời ra trước cổng quán để chứng kiến một nam thanh niên có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Người thanh niên khai tên là Nguyễn Đình L, sinh năm 1999; nơi cư trú: Khu T, phường HĐ, thị xã ĐT, tỉnh QN, túi nilon được quấn bằng giấy ăn màu trắng bên trong có chứa 04 viên nén màu hồng (L khai là thuốc lắc) là của L mang đi để sử dụng.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Phùng Thị Ng vắng mặt tại phiên tòa nhưng có lời khai tại cơ quan điều tra như sau: Chị là chị gái của Phùng Thị N, bạn gái Nguyễn Đình L. Chiếc xe Liberty màu trắng L dùng làm phương tiện sử dụng ngày 26-5-2020 là tài sản của chị. Việc L dùng xe của chị để đi sử dụng ma túy chị không biết. Chị đề nghị được xin lại chiếc xe để có phương tiện đi lại.
Lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa là phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của những người chứng kiến, với Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an phường H lập hồi 18 giờ 20 phút ngày 26-5-2020, với vật chứng thu giữ của bị cáo, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 18 giờ 20 phút, ngày 26-5-2020, tại khu Đ, phường H, thị xã Đ, tỉnh QN, Nguyễn Đình L là người có đủ năng lực, trách nhiệm hình sự có hành vi tàng trữ trái phép 1,413g (một phẩy bốn một ba) gam ma túy, loại MDMA, mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang, thu giữ vật chứng. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Đông Triều truy tố và kết luận về hành vi phạm tội đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[3] Về hình phạt:
[3.1] Hình phạt chính:
Hành vi nêu trên của bị cáo đã phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:
..."1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong những trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
...
c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR – 11 có khối lượng từ 0,1gam đến dưới 05gam.”
[3.2] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội: Bị cáo là người trưởng thành, có khả năng nhận thức được tác hại của ma túy, biết hành vi tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý phạm tội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an xã hội.
[3.3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, nên không có tình tiết tăng nặng. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Từ những đánh giá, phân tích nêu trên, căn cứ vào nhân thân, hành vi, tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo cũng như những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HĐXX xét thấy phải có mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, buộc bị cáo phải cách ly khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung tội phạm.
[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng. Xét bị cáo không có tài sản riêng, mua ma túy để sử dụng không nhằm mục đích bán kiếm lời nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[5] Về xử lý vật chứng: Số ma túy MDMA, thu giữ của bị cáo là vật Nhà nước cấm tàng trữ, 01 (một) mảnh giấy ăn màu trắng không còn giá trị sử dụng, nên tịch thu tiêu hủy; chiếc điện thoại di động bị cáo dùng gọi điện cho M để mua ma túy ngày 21-5-2020, là công cụ bị cáo dùng vào việc phạm tội, nên tịch thu sung Ngân sách Nhà nước.
[6] Những tình tiết khác trong vụ án:
Đối với người tên Mạnh theo lời khai của L là người đã bán ma túy cho bị cáo, quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ nên không có căn cứ để xử lý.
Đối với chiếc xe Liberty màu trắng, sau khi tra cứu xác định có biển kiểm soát 15B1 – 08633, quá trình điều tra xác định đây là tài sản của chị Phùng Thị Ng, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Đông Triều đã trả lại chiếc xe cho chị Ng nên Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.
[7] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ:
- Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm a, c khoản 1 Điều 47; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
- Điểm a, c khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự - Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án,
1. Về tội danh: Bị cáo Nguyễn Đình L phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Đình L 21 (hai mươi mốt) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ 26-5-2020.
3. Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong hoàn lại sau giám định số 573/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, 01 (một) mảnh giấy ăn màu trắng; tịch thu sung Ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu iPhone 7 plus màu đen.
(Số vật chứng, tài sản trên có tình trạng và đặc điểm như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 04 tháng 9 năm 2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Đông Triều và Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh).
4. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Đình L phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án 75/2020/HSST ngày 22/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 75/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Đông Triều - Quảng Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về