TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH LIÊM, TỈNH HÀ NAM
BẢN ÁN 75/2020/HS-ST NGÀY 17/11/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 17 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 77/2020/TLST-HS ngày 21 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 78/2020/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 11 năm 2020, đối với bị cáo:
Đinh Văn H - sinh năm 1993; nơi cư trú: thôn NC, xã TT, huyện TL, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: 09/12; dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; con ông Đinh Văn H1 (đã chết) và bà Trần Thị N; vợ, con: chưa có; tiền án: không; tiền sự: ngày 10/5/2020, bị Công an xã Thanh Tân, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”; đặc điểm nhân thân: ngày 01/9/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam ra Quyết định về việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đua vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, ngày 28/9/2020 bị Công an huyện Thanh Liêm xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”; bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 15/9/2020 đến ngày 24/9/2020 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Thanh Liêm; có mặt.
* Bị hại: anh Nguyễn Văn H2 - sinh ngày 23/01/2002; nơi cư trú: thôn NC, xã TT, huyện TL, tỉnh Hà Nam (vắng mặt).
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
+ Anh Đinh Văn L - sinh năm 1980; nơi cư trú: thôn ĐH, xã TT, huyện TL, tỉnh Hà Nam; văng mặt.
+ Bà Trần Thị N - sinh năm 1966; nơi cư trú: thôn NC, xã TT, huyện TL, tỉnh Hà Nam; có mặt.
* Người làm chứng:
+ Ông Đặng Văn Tr - sinh năm 1960; vắng mặt.
+ Chị Đặng Thị C - sinh năm 1982; vắng mặt.
+ Anh Nguyễn Văn H - sinh năm 1999; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Do cần tiền tiêu sài cá nhân nên khoảng 03 giờ ngày 15/9/2020, Đinh Văn H đi bộ từ nhà để xem có gia đình nào sơ hở trong quản lý tài sản thì lấy trộm. Khi đi đến gia đình ông Đặng Văn Tr - sinh năm 1960 ở thôn NC, xã TT, huyện TL, tỉnh Hà Nam, H đi theo lối vườn sau nhà ông Tr rồi đi về phía sân trước thì thấy phía hông cửa nhà bên phải nhà ông Tr có một cánh cửa đang khép hờ, trong nhà không bật điện. Quan sát xung quanh không có ai nên H đi đến sát cánh cửa, nhìn vào trong nhà thì thấy cháu ngoại ông Tr là anh Nguyễn Văn H2 đang nằm ngủ dưới nền nhà gần cánh cửa, cạnh đầu anh H2 phía bên trái cách cánh cửa khoảng 20cm có 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X màu trắng của anh H2 để dưới nền nhà đang sáng màn hình, H ngồi xuống sát cửa thò tay trái vào trong lấy điện thoại rồi bỏ vào túi quần bên trái đang mặc và quay ra, trèo qua tường bao trước cổng nhà ông Trường đi bộ về nhà. Khi về đến nhà H lấy que tăm để tháo sim bên trong điện thoại vừa lấy trộm được ra ném xuống vườn phía trước cửa nhà H rồi đi ngủ. Đến 07 giờ cùng ngày, H mang chiếc điện thoại trên đi bán, trên đường đi qua cầu treo Nam Công thuộc địa phận thôn Nam Công, xã Thanh Tân, huyện Thanh Liêm, H tháo ốp lưng chiếc điện thoại đó ra thì thấy bên trong có một chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Văn H2 nên H ném ốp điện thoại và chứng minh nhân dân đó xuống sông Đáy, rồi mang điện thoại đến cửa hàng mua bán điện thoại “NL” của anh Đinh Văn L ở thôn Đức Hòa, xã TT, huyện TL, tỉnh Hà Nam bán. Tại đây, H nói với anh L là nhặt được chiếc điện thoại nên muốn bán, do không biết mật khẩu mở khóa màn hình và mật khẩu icloud nên anh L chỉ trả giá mua chiếc điện thoại trên là 1.000.000đ (một triệu đồng), H đồng ý bán và cầm tiền tiêu sài cá nhân hết.
* Vật chứng thu giữ: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X màu trắng do anh Đinh Văn L tự nguyện giao nộp.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 33/KL-HĐĐGTS ngày 22/9/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Thanh Liêm kết luận: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X màu trắng 64G đã qua sử dụng là 8.666.000đ (tám triệu sáu trăm sáu mươi sáu nghìn đồng).
Bản cáo trạng số 81/CT-VKSTL ngày 21/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Liêm đã truy tố Đinh Văn H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng đã nêu, không có ý kiến bổ sung hoặc thay đổi gì. Sau khi phân tích tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân của bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử: tuyên bố bị cáo Đinh Văn H tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật Hình sự - Xử phạt Đinh Văn H từ 15 đến 21 tháng tù. Lưu tại hồ sơ vụ án 01 USB bên trong có dữ liệu trích xuất từ camera tại quán điện thoại NL. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo. Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự theo quy định.
Bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã mô tả và có ý kiến xin giảm nhẹ hình phạt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - bà Trần Thị Ngọc có ý kiến: bà là mẹ đẻ của bị cáo và có biết bị cáo nghiện ma túy. Sau khi sự việc xảy ra bà đã trả cho anh Đinh Văn L 1.000.000 đồng nay bà không có ý kiến gì về số tiền trên mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa cũng như tại Cơ quan điều tra, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Lời khai của các bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa phù hợp với chính lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng, biên bản khám nghiệm hiện trường, vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận:
Do cần tiền tiêu sài cá nhân nên khoảng 03 giờ ngày 15/9/2020, Đinh Văn H đã lén lút vào nhà ông Đặng Văn Tr ở thôn NC, xã TT, huyện TL, tỉnh Hà Nam lấy trộm 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X có trị giá 8.666.000đ (tám triệu sáu trăm sáu mươi sáu nghìn đồng) của anh Nguyễn Văn H2 rồi đem bán cho anh Đinh Văn L được 1.000.000đ (một triệu đồng).
Hành vi nêu trên của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Quan điểm tmy tố của Viện kiểm sát là đứng người, đứng tội, đứng pháp luật.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác mà quyền này được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương. Do đó Hội đồng xét xử thấy cần ra bản án nghiêm khắc tương xứng hành vi phạm tội của bị cáo.
Xét về thân nhân bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy rằng:
Về thân nhân: bị cáo có nhân thân xấu.
Về tình tiết tăng nặng: bị cáo không phải chịu tình tiết nào.
Về tình tiết giảm nhẹ: bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của bản thân nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Qua xem xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo; Hội đồng xét xử xét thấy cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, cải tạo các bị cáo trở thành công dân lương thiện và có tác dụng phòng ngừa chung.
Về hình phạt bổ sung: xét thấy bị cáo là lao động tự do, thu nhập không ổn định, nên miễn phạt tiền đối với bị cáo.
[4] Về trách nhiệm dân sự: quá trình điều tra anh Nguyễn Văn H2 đã nhận lại điện thoại bị chiếm đoạt, không có yêu cầu bị cáo H phải bồi thường về dân sự; bà Trần Thị Ngọc là mẹ đẻ của bị cáo H đã tự nguyện trả số tiền 1.000.000đ (một triệu đồng) cho anh Đinh Văn L, sau khi nhận tiền anh L không có yêu cầu gì khác, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[5] Về xử lý vật chứng: đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X màu trắng, quá trình điều tra xác định đây là tài sản hợp pháp của anh Nguyễn Văn H2. Cơ quan Cảnh sát Điều tra - Công an huyện Thanh Liêm đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc điện thoại trên cho anh H2 là có căn cứ.
Đối với 01 USB nhãn hiệu Kingston dung lượng 8GB bên trong có dữ liệu trích xuất camera tại quán điện thoại NL, đây là tài liệu chứng minh tội phạm, nên cần lưu tại hồ sơ vụ án.
[6] Các vấn đề khác:
Đối với việc anh Đinh Văn L mua điện thoại di động của Đinh Văn H: quá trình điều tra xác định, khi mua điện thoại anh L không biết điện thoại này do H trộm cắp mà có, khi H bán điện thoại cho anh L thì H nói đây là điện thoại H nhặt được, anh L cũng đã tự nguyện giao nộp chiếc điện thoại trên cho Cơ quan Cảnh sát Điều tra - Công an huyện Thanh Liêm. Do vậy, Cơ quan Cảnh sát Điều tra - Công an huyện Thanh Liêm không xem xét trách nhiệm đối với anh L là có căn cứ và đứng pháp luật.
Đối với 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Văn H2, 01 ốp điện thoại di động của anh H2 quá trình điều tra Đinh Văn H khai đã vất xuống sông Đáy tại cầu treo NC; đối với 01 sim điện thoại của anh H2 quá trình điều tra Đinh Văn H khai vất xuống vườn trước cửa nhà H; Cơ quan CSĐT - Công an huyện Thanh Liêm đã tiến hành truy tìm nhưng không thấy, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
[7] Về án phí: bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; các Điều 136; 329; 331; 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
1. Tuyên bố: bị cáo Đinh Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
2. Xử phạt bị cáo Đinh Văn H 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 15/9/2020.
3. Xử lý vật chứng:
- Lưu tại hồ sơ vụ án 01 USB nhãn hiệu Kingston dung lượng 8GB bên trong có dữ liệu trích xuất camera tại quán điện thoại NL.
4. Án phí: buộc bị cáo Đinh Văn H phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
5. Quyền kháng cáo đối với bản án: bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”./.
Bản án 75/2020/HS-ST ngày 17/11/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 75/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thanh Liêm - Hà Nam |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/11/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về