Bản án 75/2019/HSST ngày 25/09/2019 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN RANG - THÁP CHÀM, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 75/2019/HSST NGÀY 25/09/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 25 tháng 09 năm 2019, tại Phòng xử án Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 75/2019/HSST, ngày 14 tháng 08 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 75/2019/QĐXXST-HS, ngày 10/09/2019 đối với bị cáo:

VÕ KIM L, sinh năm: 1979, tại Ninh Thuận.

Nơi cư trú: Khu phố 3, phường V, thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Nghề nghiệp: Thợ hồ; Trình độ học vấn: 06/12; Con ông Võ Văn K, sinh năm 1951 (Đã chết) và bà Cao Thị H, sinh năm 1951 (Đã chết); Anh chị em ruột có 07 người, lớn nhất sinh năm 1970, nhỏ nhất sinh năm 1988; Bị cáo là con thứ tư trong gia đình; Vợ Phạm Thị Ng, sinh năm 1983; Có 03 người con lớn nhất sinh năm 2001, nhỏ nhất sinh năm 2005.

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo tại ngoại và có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại:

1. Ông Phan Văn H1, sinh năm 1975 (Vắng mặt);

Đa chỉ: Khu phố 5, phường Văn H, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận.

2. Ông Tăng Văn T, sinh năm 1983 (Vắng mặt)

Địa chỉ: Khu phố 6, phường V, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận.

* Người làm chứng:

1. Em Võ Kim Đ, sinh ngày 24/04/2005 (Có mặt).

Đi diện hợp pháp của em Đồng: Bà Phạm Thị Ng, sinh năm: 1983 (Có mặt).

2. Anh Võ Kim Ph, sinh ngày 07/04/2001 (Có mặt).

Cùng địa chỉ: Khu phố 3, phường V, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận.

3. Ông Đặng Kim B, sinh năm 1977 (Vắng mặt).

Đa chỉ: Khu phố 3, phường M, thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận.

4. Ông Nguyễn Kỳ N, sinh năm 1980 (Vắng mặt).

Đa chỉ: Khu phố 4, phường Đ, thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 19 giờ ngày 21/01/2019, sau khi nhậu về, Võ Kim L chạy xe mô tô ngang qua nhà của anh Phan Văn H1 (Sinh năm: 1975, trú tại: Khu phố 5, phường V), thấy có nhiều người đang ngồi nhậu ở nhà anh H1 thì L ghé vào nhà anh H1. Lúc này, anh H1 đang nhậu với anh Nguyễn Kỳ N (Sinh năm: 1980, trú tại: Khu phố 4, phường Đ), anh Đặng Kim B (Sinh năm: 1977, trú tại: Khu phố 3, phường M), anh Tăng Văn T (Sinh năm: 1983, trú tại: Khu phố 6, phường V, TP. Phan Rang - Tháp Chàm) và một người tên Đen (Chưa rõ nhân thân, lai lịch), thấy L nên anh H1 mời vào nhậu chung. Trong lúc đang nhậu, anh H1 nói chuyện về việc tại nhà anh H1 bị mất trộm gà, anh H1 nghi ngờ bạn của L đã bắt trộm gà nên giữa anh H1 và L xảy ra mâu thuẫn, anh H1 dùng tay phải đấm 01 cái vào miệng của L gây chảy máu. Do bị đánh nên L lấy xe mô tô chạy về nhà ở khu phố 3, phường V thì gặp Võ Kim Ph (Sinh ngày: 07/4/2001), Võ Kim Đ (Sinh ngày 24/4/2005, cùng trú tại: Khu phố 3, phường V đều là con của Long), L kêu Đ ra trước nhà kể cho Đ nghe chuyện L bị anh H1 đánh thì Đ hỏi nhà anh H1 ở đâu rồi bảo L chở đến nhà anh H để đánh trả thù. Nói xong Đ đi xuống nhà bếp lấy 01 con dao bằng kim loại, lưỡi dài 10cm, cán dài 15cm bằng nhựa màu đen (Loại dao bấm) bỏ vào trong túi quần, L điều khiển xe mô tô, hiệu Ferroli, màu trắng xanh, biển số: 85B1-375.35 chở Đ. Khi đến nhà anh H1 thấy có nhiều người L, Đ không vào nhà mà đứng trước tiệm phế liệu trên đường Trường Chinh, thuộc khu phố 5, phường V ở gần nhà anh H1. Lúc này, Đ lấy điện thoại của L gọi cho Ph nói L bị đánh kêu Ph chạy xuống. Đến khoảng 21 giờ, anh B điều khiển xe mô tô chở anh T về, thấy L nên anh B dừng xe lại để nói chuyện, sợ bị đánh nên anh T xuống xe chạy vào nhà anh H1 gọi anh H1. Khi anh H1, anh T đi ra thì L hỏi anh H1 lý do tại sao lại đánh L rồi Long lao vào dùng tay đánh anh H1, lúc này anh T và anh H1 cũng lao vào dùng tay chân đánh nhau với L làm L ngã xuống đường nhưng không gây ra thương tích gì. Thấy L bị đánh, Đ đứng ở gần đó chạy đến cầm dao tay phải đâm nhiều nhát vào người anh T trúng sườn trái, lưng trái, mông trái gây thương tích. Khi anh H1 lao vào đánh Đ thì cũng bị Đ cầm dao đâm nhiều nhát vào người anh H1 trúng tay trái, vùng lưng, bẹn trái, hông trái gây thương tích. Thấy vậy, anh B, anh N vào can ngăn không cho đánh nữa. Khi hai bên không còn đánh nhau thì Ph chạy xe mô tô đến, anh H1 từ trong nhà chạy ra tiếp tục đòi đánh nhau với L, Đ nên Ph kêu L, Đ đi về. Do thấy anh H1 bị thương tích nên Ph khuyên anh H1 về điều trị vết thương nhưng anh H1 không đồng ý và có lời lẽ chửi mắng, thách thức nên Ph cầm mũ bảo hiểm đánh anh H1 01 cái, anh H1 dùng tay đỡ được nên không gây ra thương tích gì. Sau đó, L, Đ, Ph lấy xe mô tô chạy về nhà, anh H1, anh T được đưa đi bệnh viện cấp cứu.

Sau khi sự việc xảy ra, Công an phường V đã mời L, Đ làm việc. Tại Cơ quan điều tra L, Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 38 ngày 10/4/2019 của Trung tâm giám định y khoa - Pháp y tỉnh Ninh Thuận kết luận thương tích của anh Tăng Văn T: Vết thương chéo đường nách trước tương ứng khoang liên sườn VII-VIII bên trái sẹo liền tốt phẳng di động kích thước (1,3x0,1) cm; Vết thương chéo dưới xương bả vai trái sẹo liền tốt phẳng di động kích thước (5,4x0,2) cm; Vết thương ngang ¼ phía ngoài trên mông trái sẹo liền tốt phẳng kích thước (2,3x0,2) cm. Cơ chế hình thành vết thương là do vật sắc gây nên. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 05% .

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 39 ngày 16/4/2019 của Trung tâm giám định y khoa - Pháp y tỉnh Ninh Thuận kết luận thương tích của anh Phan Văn H1: Vết thương dọc lưng trái sẹo liền tốt phẳng kích thước (2,5x0,3) cm; Vết thương ngang hông phải sẹo lồi tốt phẳng kích thước (4,2x0,5) cm, cúi ngửa lưng bình thường; Vết thương dọc mặt sau 1/3 giữa cẳng tay trái sẹo liền tốt phẳng kích thước (1,8x0,1) cm, vận động sấp ngửa cẳng tay bình thường; Vết thương ngang vùng lưng trái sẹo liền tốt phẳng di động kích thước (2,3x0,1) cm, cúi ngửa lưng bình thường; Vết thương dọc vùng bẹn trái sẹo liền tốt phẳng di động kích thước (1,2x0,1) cm. Cơ chế hình thành vết thương là do vật sắc gây nên. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 05%.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận diễn biến sự việc xảy ra như nội dung cáo trạng đã truy tố.

Bản Cáo trạng số: 75/CT-VKSPRTC, ngày 13 tháng 08 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận truy tố bị cáo Võ Kim L về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: điểm a khoản 1 Điều 134; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Võ Kim L từ 09 (Chín) đến 12(Mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Đề nghị xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.

Bị cáo không tranh luận.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo rất hối hận về việc làm sai trái của mình, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Phan Rang - Tháp chàm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp chàm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Võ Kim L khai nhận toàn bộ hành vi của mình. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng và các chứng cứ khác thu thập tại hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở để xác định bị cáo đã thực hiện hành vi cụ thể như sau: Do có mâu thuẫn với anh Tăng Văn T và anh Phan Văn H1 nên vào khoảng 21 giờ ngày 21/01/2019, Võ Kim L điều khiển xe mô tô chở con trai là Võ Kim Đ đến nhà anh Phan Văn H1 ở khu phố 5, phường V, TP. Phan Rang - Tháp Chàm để đánh trả thù. Trong lúc đánh nhau, Võ Kim Đ đã dùng dao là “Hung khí nguy hiểm” đâm anh Tăng Văn T và anh Phan Văn H gây thương tích, với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người là 05%.

Mặc dù Võ Kim L, không trực tiếp gây ra thương tích cho anh Tăng Văn T và anh Phan Văn H1 nhưng Võ Kim L phải chịu trách nhiệm hình sự về “Tội cố ý gây thương tích” với vai trò đồng phạm là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội không những xâm phạm đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm để có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Tuy nhiên, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; quá trình điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo cũng đã bồi thường cho người bị hại là anh Tăng Văn T và anh Phan Văn H1 mỗi người 2.000.000đ (Hai triệu đồng) nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Vì vậy, Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cho bị cáo hưởng án treo cũng đủ để răn đe, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.

[5] Đối với Võ Kim Đ khi thực hiện hành vi dùng dao gây thương tích cho anh Tăng Văn T và anh Phan Văn H1, Võ Kim Đ mới 13 tuổi, 08 tháng, 27 ngày nên chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và xử lý vi phạm hành chính, Cơ quan điều tra không đề nghị xử lý là có cơ sở.

Đi với anh Tăng Văn T, anh Phan Văn H1 là những người đã thực hiện hành vi đánh Võ Kim L, Võ Kim Đ nhưng không gây ra thương tích gì nên Cơ quan điều tra không xử lý hình sự là có căn cứ.

Đi với Võ Kim Ph sau khi sự việc đánh nhau đã kết thúc thì Ph đến và không gây ra thương tích cho ai nên Cơ quan điều tra không xử lý hình sự là có cơ sở.

[6] Về xử lý vật chứng của vụ án: 01 con dao bằng kim loại, lưỡi dài 10cm, cán dài 15cm bằng nhựa màu đen (Loại dao bấm), sau khi sử dụng để đâm anh Tăng Văn T và anh Phan Văn H1, Võ Kim Đ đã vứt bỏ con dao trên đoạn đường Trường Chinh thuộc phường V nhưng không nhớ rõ vị trí, Cơ quan điều tra đã tiến hành truy tìm nhưng không thu hồi được.

Đi với chiếc xe mô tô, hiệu Ferroli, màu trắng xanh, biển số 85B1-375.35, quá trình điều tra xác định chiếc xe thuộc quyền sở hữu của chị Phạm Thị Ng (Sinh năm: 1983, trú tại: Khu phố 3, phường V, TP. Phan Rang - Tháp Chàm là vợ của Võ Kim L), chị Ng không biết Võ Kim L dùng xe mô tô của mình để thực hiện hành vi phạm tội nên Cơ quan điều tra không thu giữ chiếc xe nêu trên là có cơ sở.

[7] Về trách nhiệm dân sự:

Quá trình điều tra, anh Tăng Văn T, anh Phan Văn H1 và Võ Kim L đã tự nguyện thỏa thuận với nhau về việc bị cáo bồi thường cho anh Tăng Văn T, anh Phan Văn H1 mỗi người với số tiền là 8.600.000 (Tám triệu sáu trăm nghìn đồng) về các khoản chi phí chữa trị, ngày công lao động do thương tích đã gây ra. Hiện Võ Kim L đã bồi thường cho anh Tăng Văn T và anh Phan Văn H1 mỗi người 2.000.000đ (Hai triệu đồng). Anh Tăng Văn T và anh Phan Văn H1 đã nhận được tiền do bị cáo Võ Kim L bồi thường. Vì vậy, Võ Kim L còn phải tiếp tục bồi thường cho Anh Tăng Văn T, anh Phan Văn H1 mỗi người với số tiền là 6.600.000đ (Sáu triệu sáu trăm nghìn đồng). Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo và người bị hại vẫn giữ nguyên số tiền bồi thường đã thỏa thuận tại cơ quan điều tra nên Hội đồng xét xử công nhận sự thoả thuận này là phù hợp pháp luật.

[8] Xét quan điểm của Viện Kiểm sát về việc định tội và định khung hình phạt đối với bị cáo Võ Kim L; Xác định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo là hoàn toàn tương xứng với tính chất, mức độ hành vi nguy hiểm cho xã hội, quan điểm về xử lý vật chứng là có căn cứ, đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Về Án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm a khoản 1 Điều 134, điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tuyên bố: Bị cáo Võ Kim L phạm tội “Cố ý gât thương tích”.

Xử phạt: Bị cáo Võ Kim L 12 (Mười hai) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 24 (Hai mươi bốn) tháng kể từ ngày tuyên án. Trong thời gian thử thách, giao bị cáo Võ Kim L cho Ủy ban nhân dân phường V, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận để giám sát, giáo dục. Trường hợp thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ vào Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 357; khoản 2 Điều 468; Điều 589 Bộ luật dân sự.

Công nhận sự thỏa thuận của bị cáo và người bị hại:

Bị cáo Võ Kim L còn phải tiếp tục bồi thường cho các anh Tăng Văn T và Phan Văn H1 mỗi người với số tiền là 6.600.000đ (Sáu triệu sáu trăm nghìn đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Về án phí: Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Võ Kim L phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định, được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử sơ thẩm công khai có mặt bị cáo. Quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày25/09/2019). Người bị hại là các anh Tăng Văn T và Phan Văn H1 (vắng mặt tại phiên tòa) có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

(Đã giải thích chế định án treo cho bị cáo).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 75/2019/HSST ngày 25/09/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:75/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về