Bản án 75/2019/HNGĐ-ST ngày 20/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN BIÊN, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 75/2019/HNGĐ-ST NGÀY 20/11/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 20 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 192/2019/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 6 năm 2019 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 139/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 10 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 105/2019/QĐST-HNGĐ ngày 01 tháng 11 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Huỳnh Văn H, sinh năm 1973 (có mặt);

2. Bị đơn: Chị Phạm Thị Bé V, sinh năm 1980 (vắng mặt);

Cùng địa chỉ: ấp N B, xã T A, huyện A B, Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong đơn khởi kiện ngày 19/4/2018 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn anh Huỳnh Văn H trình bày và yêu cầu như sau:

Anh và chị Phạm Thị Bé V quen biết, tìm hiểu yêu thương nhau. Đến năm 1999, được sự chấp thuận của hai bên gia đình tổ chức lễ cưới và chung sống với nhau, anh chị đi đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã T A, huyện A B, tỉnh Kiên Giang cấp Giấy chứng nhận kết hôn ngày 17/8/2007. Thời gian chung sống, anh chị có 02 người con chung tên Huỳnh Quốc Kh, sinh ngày 12/12/2000 và Huỳnh Duy T, sinh ngày 03/12/2008 hiện đang sống chung với anh; về tài sản chung, anh chị đã tự thỏa thuận; về nợ, anh xác định anh chị không có nợ. Quá trình chung sống hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng về quan điểm sống, anh chị thường xuyên bất hòa, cự cải với nhau. Anh chị cố gắng dàn xếp để chung sống lo cho con nhưng vẫn không dung hòa với nhau được và anh chị đã ly thân nhau cách nay 02 năm, anh thấy chị V không còn chung thủy với anh nữa, nay không thể hàn gắn với nhau được. Anh yêu cầu Tòa án giải quyết:

Về quan hệ hôn nhân, anh yêu cầu được ly hôn với chị Phạm Thị Bé V; về quan hệ con chung, khi ly hôn anh yêu cầu được nuôi dưỡng con chung tên Huỳnh Duy T, sinh ngày 03/12/2008 theo nguyện vọng của Huỳnh Duy T. Còn con chung tên Huỳnh Quốc Kh, sinh ngày 12/12/2000 hiện nay đã trưởng thành anh không yêu cầu giải quyết, anh không yêu cầu chị V phải cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chung, anh và chị V đã tự thỏa thuận, anh không yêu cầu giải quyết; về nợ, anh xác định không có, không yêu cầu giải quyết.

* Tại biên bản ghi nhận ý kiến nguyện vọng ngày 22/7/2019, Huỳnh Duy Tân trình bày: Huỳnh Duy T có nguyện vọng chung sống với cha là anh Huỳnh Văn H.

* Tại biên bản xác minh ngày 20/8/2019, về nguyên nhân mâu thuẫn và tình trạng hôn nhânAnh Huỳnh Văn H và chị Phạm Thị Bé V chung sống với nhau không hạnh phúc và đã ly thân với nhau, chị V đi làm ăn thường xuyên đi về ấp N B, xã T A, huyện A B, tỉnh Kiên Giang.

* Bị đơn chị Phạm Thị Bé V: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho chị V nhưng chị V không có ý kiến gì và cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ gì đối với yêu cầu khởi kiện của anh H nên Toà án vẫn tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

* Tài liệu, chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án gồm: Sổ hộ khẩu Huỳnh Văn H và Phạm Thị Bé V, Giấy chứng minh nhân dân Huỳnh Văn H, Giấy chứng nhận kết hôn Huỳnh Văn H và Phạm Thị Bé V, 02 giấy khai sinh Huỳnh Quốc Kh và Huỳnh Duy T, Đơn xin xác nhận tình trạng cư trú của người bị kiện ngày 19/5/2019, Biên bản ghi nhận ý kiến nguyện vọng của Huỳnh Duy T ngày 22/7/2019, Biên bản xác minh ngày 20/8/2019 của Tòa án nhân dân huyện An Biên.

* Tại phiên tòa:

Nguyên đơn anh Huỳnh Văn H yêu cầu được ly hôn với chị Phạm Thị Bé V. Về quan hệ con chung, khi ly hôn anh yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung tên Huỳnh Duy T, sinh ngày 03/12/2008 theo nguyện vọng của Huỳnh Duy T, còn con chung tên Huỳnh Quốc Kh, sinh ngày 12/12/2000 hiện nay đã trưởng thành anh không yêu cầu giải quyết, anh không yêu cầu chị V phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ không có, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn chị Phạm Thị Bé V vắng mặt đến lần thứ hai không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:

- Về thủ tục tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án cho đến khi đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án thực hiện các thủ tục tố tụng từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử, xác định mối quan hệ pháp luật, đưa tư cách đương sự tham gia tố tụng, về thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh, tống đạt các văn bản tố tụng và chuyển hồ sơ vụ án cho Viện Kiểm sát đúng trình tự thủ tục và thời gian quy định tại khoản 1 Điều 35, Điều 48, Điều 51, Điều 68, các Điều 208, 209, 210, 211, 239 và Điều 247 của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Pháp luật tố tụng dân sự. Bị đơn vắng mặt đến lần thứ hai không có lý do nên đề nghị Hội đồng xét xử, xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung vụ án: Anh Huỳnh Văn H và chị Phạm Thị Bé V chung sống với nhau vào năm 1999, anh chị có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã T A, huyện A B, tỉnh Kiên Giang cấp Giấy chứng nhận kết hôn ngày 17/8/2007 là hôn nhân hợp pháp. Trong quá trình chung sống, anh chị phát sinh nhiều mâu thuẫn, dẫn đến hôn nhân lâm vào trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, anh H yêu cầu được ly hôn với chị V là có căn cứ chấp nhận; về quan hệ con chung, anh chị có được 02 đứa con chung tên Huỳnh Quốc Kh, sinh ngày 12/12/2000 và Huỳnh Duy T, sinh ngày 03/12/2008, hiện nay Huỳnh Quốc Kh đang chung sống với chị V, Huỳnh Duy T đang chung sống với anh. Khi ly hôn anh H yêu cầu được nuôi dưỡng con chung tên Huỳnh Duy T theo nguyện vọng của con Huỳnh Duy T, nay Huỳnh Quốc Kh đã thành niên anh H không yêu cầu giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử, giao con chung của anh chị tên Huỳnh Duy T, sinh ngày 03/12/2008 cho anh H tiếp tục nuôi dưỡng theo nguyện vọng của Huỳnh Duy T con anh chị; về cấp dưỡng nuôi con, anh H không yêu cầu chị V cấp dưỡng nuôi con nên đề nghị không xem xét; về tài sản chung và nợ anh H xác định không có, không yêu cầu giải quyết. Đề nghị Hội đồng xét xử miễn xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Anh Huỳnh Văn H yêu cầu được ly hôn với chị Phạm Thị Bé V và tranh chấp về nuôi con. Anh Huỳnh Văn H và chị Phạm Thị Bé V đều cư trú: ấp N B, xã T A, huyện A B, Kiên Giang nên xác định đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho chị V nhưng chị V không có ý kiến gì và cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ gì để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Toà án tổ chức và thông báo cho các bên đương sự để tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng chị V vắng mặt đến lần thứ hai không có lý do. Như vậy, đây là thuộc trường hợp không tiến hành hoà giải được theo quy định tại Điều 206 của Bộ luật tố tụng dân sự nên Toà án quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung và tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa cho chị V, nhưng chị V vẫn cố tình vắng mặt đến lần thứ hai không có lý do. Đồng thời, tại phiên toà lần thứ hai anh H không yêu cầu hoãn phiên toà. Vì vậy, Toà án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt chị V theo quy định tại khoản 2 Điều 227, điểm b khoản 1 Điều 238 và Điều 241 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về nội dung: Về quan hệ hôn nhân, anh H và chị V chung sống với nhau vào năm 1999, anh chị có đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (Ủy ban nhân dân xã T A, huyện A B, tỉnh Kiên Giang là nơi cư trú của anh chị) và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số: 62, quyển số 01, ngày 17/8/2007, anh chị đảm bảo các điều kiện kết hôn khác theo quy định của pháp luật là quan hệ hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận theo quy định tại Điều 11 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 nay là Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Xét yêu cầu của anh H được ly hôn với chị V, anh chị sống chung không hạnh phúc, thường xuyên phát sinh mâu thuẫn và cự cải với nhau, anh H và chị V cố gắng dàn xếp để chung sống cùng nhau nuôi dại con chung nhưng vẫn không dung hòa với nhau được nên anh chị sống ly thân với nhau đến nay khoảng 02 năm, anh thấy anh và chị V không thể hàn gắn với nhau được nữa, anh yêu cầu được ly hôn với chị V; chị V không có ý kiến và yêu cầu gì. Từ đó, hôn nhân của anh chị đã vi phạm nghĩa vụ giữa vợ chồng thời gian dài, vợ chồng không chăm sóc, lo lắng lẫn nhau mà anh chị không có biện pháp hàn gắn để chung sống với nhau nên hôn nhân của anh chị đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, tại phiên tòa hôm nay anh H cương quyết yêu cầu được ly hôn với chị V. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị Kiểm sát viên và yêu cầu khởi kiện của anh H, cho anh Huỳnh Văn H được ly hôn với chị Phạm Thị Bé V là phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 51, Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

Về quan hệ con chung, anh H và chị V có 02 người con chung tên Huỳnh Quốc Kh, sinh ngày 12/12/2000 và Huỳnh Duy T, sinh ngày 03/12/2008, hiện nay Huỳnh Quốc Kh đang chung sống với chị V, Huỳnh Duy T đang chung sống với anh H. Khi ly hôn anh H yêu cầu được nuôi dưỡng con chung tên Huỳnh Duy T theo nguyện vọng của con Huỳnh Duy T, Huỳnh Quốc Kh nay đã thành niên anh H không yêu cầu giải quyết; chị V không có ý kiến yêu cầu gì. Hội đồng xét xử thấy rằng, anh H yêu cầu được nuôi dưỡng con chung tên Huỳnh Duy T, sinh ngày 03/12/2008, hiện nay đang chung sống với anh H là phù hợp với nguyện vọng của Huỳnh Duy T con anh chị. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên, yêu cầu của anh H và nguyện vọng của Huỳnh Duy T con anh chị, giao con chung của anh chị tên Huỳnh Duy T, sinh ngày 03/12/2008 cho anh H tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp quy định tại khoản 2 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình. Con của anh chị tên Huỳnh Quốc Kh, sinh ngày 12/12/2000 hiện nay đã thành niên, anh H không yêu cầu giải quyết, chị V không ý kiến yêu cầu gì nên không xem xét.

Về cấp dưỡng nuôi con, anh H không yêu cầu chị V cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.

Về tài sản chung và nợ, anh H xác định anh và chị V không có tài sản chung, không nợ người khác, người khác không nợ anh chị và anh H không yêu cầu giải quyết nên không xem xét. Nếu sau này có phát sinh tranh chấp chia tài sản chung và nợ thì được xem xét giải quyết bằng vụ kiện khác.

[4] Về án phí, nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu nên nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm ly hôn nhưng được trừ vào số tiền đã tạm ứng án phí theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghi quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 206, khoản 2 Điều 227, điểm b khoản 1 Điều 238, Điều 241, Điều 266 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 9, khoản 1 Điều 51, Điều 56, khoản 2 Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho anh Huỳnh Văn H được ly hôn với chị Phạm Thị Bé V.

2. Về quan hệ con chung: Giao con chung của anh chị tên Huỳnh Duy T, sinh ngày 03/12/2008 cho anh H tiếp tục nuôi dưỡng theo nguyện vọng của Huỳnh Duy T con anh chị, hiện nay con của anh chị đang chung sống với anh Huỳnh Văn H.

Con chung của anh chị tên Huỳnh Quốc Kh, sinh ngày 12/12/2000 hiện nay đã thành niên, anh H không yêu cầu giải quyết, chị V không ý kiến yêu cầu gì nên không xem xét.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người không trực tiếp nuôi con.

3. Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Huỳnh Văn H không yêu cầu chị V cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.

4. Về tài sản chung và nợ: Anh Huỳnh Văn H xác định anh và chị V không có tài sản chung, không nợ người khác, người khác không nợ anh chị và anh H không yêu cầu giải quyết nên không xem xét. Nếu sau này có phát sinh tranh chấp chia tài sản chung và nợ thì được xem xét giải quyết bằng vụ kiện khác..

5. Về án phí: Buộc anh Huỳnh Văn H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm ly hôn là 300.000 đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu số 0001898 ngày 04 tháng 6 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang. Anh Huỳnh Văn Hậu đã nộp xong án phí dân sự sơ thẩm.

6. Báo quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong hạn là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án 20/11/2019. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 75/2019/HNGĐ-ST ngày 20/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:75/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Biên - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về