Bản án 75/2018/HS-ST ngày 22/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN DƯƠNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 75/2018/HS-ST NGÀY 22/11/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 71/2018/TLST-HS ngày 02 tháng 11 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 72/2018/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo:

Vũ Văn Đ sinh ngày 10 tháng 9 năm 1971 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Thôn N 5, xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Văn C và bà Vũ Thị B; có vợ Phạm Thị V và 02 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: có 01 tiền án đã được xóa (Án số 109/HSPT ngày 10/10/2003 Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử phạt 06 năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy); bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 28 tháng 8 năm 2018, tạm giam từ ngày 30 tháng 8 năm 2018; có mặt.

- Người làm chứng: Anh Lưu Văn L; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 00 giờ 45 phút, ngày 28 tháng 8 năm 2018, Công an huyện An Dương kết hợp Công an xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng kiểm tra bắt quả tang Vũ Văn Đ có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy tại nhà riêng ở thôn N 5, xã A,

huyện A, thành phố Hải Phòng. Vật chứng thu giữ trên tay phải Đ gồm 01 hộp kẹo bằng kim loại màu xanh-vàng, bên trong có chứa 06 gói nhỏ màu vàng, bạc, Đ khai là Heroine. Khám xét khẩn cấp nơi ở của Đ, không thu giữ tài liệu, đồ vật gì liên quan đến ma túy. Tiến hành thủ tục giám định đối với 06 gói nhỏ màu vàng, bạc ghi là chất ma túy thu giữ của Vũ Văn Đ. Tại Bản kết luận giám định số 475/KLGĐ(Đ6) ngày 30 tháng 8 năm 2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: 06 gói chứa chất bột màu trắng thu giữ của Đ gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,2470 gam, là loại: Heroine.

Tại cơ quan điều tra Vũ Văn Đ khai nhận: Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 27 tháng 8 năm 2018, Đ đến nhà Nguyễn Văn T, sinh 1964 ở thôn N 4, xã A, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng mua ma túy về để sử dụng. Khi đến nhà T, Đ đứng ngoài cửa nói: “cho con hàng”, đồng thời nhét 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) vào trong nhà T qua khe cửa cuốn dưới sát nền nhà và Đ nhận được 02 gói ma túy từ trong nhà đưa ra qua khe cửa cuốn. Đ cầm số ma túy mua được đem về nhà phân chia thành 06 gói nhỏ cất trong hộp kẹo bằng kim loại để sử dụng dần. Đ không biết T hay ai ở trong nhà T nhận tiền và đưa ma túy cho Đ. Khoảng 22 giờ cùng ngày, Đ đang dọn nhà thì có Lưu Văn L đến chơi, Đ nhờ L dọn nhà giúp. Đ và L dọn nhà đến khoảng 00 giờ 45 phút ngày 28 tháng 8 năm 2018, khi thấy lực lượng Công an xã A và Công an huyện An Dương đi tuần vào kiểm tra, Đ vội cầm hộp kim loại chứa 06 gói ma túy trên tay phải đi cất giấu thì bị Công an phát hiện thu giữ, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Bản Cáo trạng số 73/CT-VKS ngày 31 tháng 10 năm 2018 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện An Dương đã truy tố bị cáo Vũ Văn Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo Vũ Văn Đ khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung đã nêu trên. Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh và hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bị cáo Vũ Văn Đ từ 18 đến 24 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 1 và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định và 01 hộp kẹo bằng kim loại màu xanh-vàng.

Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Đối với đối tượng bán ma túy cho Vũ Văn Đ hiện chưa xác định được lai lịch, tên tuổi cụ thể nên Cơ quan công an tiếp tục điều tra làm rõ.

Bị cáo không tranh luận với Kiểm sát viên và nói lời nói sau cùng: Bị cáo rất ân hận về hành vi của mình và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo mức hình phạt thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

 [1] Về việc vắng mặt của người làm chứng: Tại giai đoạn điều tra, người làm chứng đã có lời khai nên việc vắng mặt của họ tại phiên tòa không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án. Do vậy, căn cứ khoản 1 Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt người làm chứng.

 [2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện An Dương, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện An Dương và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiền hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

- Về chứng cứ xác định bị cáo có tội và tội danh:

 [3] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với chính lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai người làm chứng, với vật chứng thu giữ, với biên bản bắt người phạm tội quả tang, với kết luận giám định và với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên đủ cơ sở kết luận: Vào lúc 00 giờ 45 phút ngày 28 tháng 8 năm 2018, bị cáo Vũ Văn Đ đã thực hiện hành vi hành vi cất giữ 0,2470 gam ma túy là loại Heroine để sử dụng và bị bắt quả tang tại nhà riêng ở thôn N 5, xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng. Việc bị cáo cố ý cất giữ trái phép Heroine với khối lượng 0,2470 gam nhằm mục đích sử dụng đã phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ đúng pháp luật.

- Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội:

 [4] Tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý ma túy của Nhà nước, loại tội phạm này đang có chiều hướng gia tăng, gây mất trật tự trị an xã hội và là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác. Đây là một tệ nạn xã hội đã và đang gây bức xúc trong quần chúng nhân dân nên cần phải được xét xử nghiêm mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm nói chung.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

 [5] Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình:

 [6] Sau khi bị bắt bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xét, về nhân thân bị cáo có 01 tiền án tuy đã được xóa án tích nhưng điều đó chứng tỏ bị cáo có nhân thân xấu, ý thức chấp hành pháp luật thấp nên cần phải xử phạt bị cáo với mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly khỏi xã hội một thời gian nhất định mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo.

- Về hình phạt bổ sung:

 [7] Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Xét bị cáo thu nhập không ổn định, hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Về vật chứng:

 [8] Đối với phong bì thư chứa số ma túy hoàn lại sau giám định cùng toàn bộ vỏ giấy gói mẫu vật gửi giám định và 01 hộp kim loại màu xanh-vàng: Đây là vật cấm lưu hành và đồ vật dùng vào việc cất giữ ma túy, không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy theo quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Về án phí và quyền kháng cáo:

 [9] Theo quy định của pháp luật bị cáo phải nộp án phí hình sự sở thẩm để nộp ngân sách Nhà nước và được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bị cáo Vũ Văn Đ 18 (Mười tám) tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 28 tháng 8 năm 2018. Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo Vũ Văn Đ.

Về vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 1 và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì thư bên trong có chứa số ma túy hoàn lại sau giám định cùng toàn bộ vỏ giấy gói mẫu vật gửi giám định có dấu niêm phong của cơ quan giám định số 475/2018/PC09 và 01 hộp kim loại màu xanh-vàng.

 (Vật chứng có đặc điểm chi tiết theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 02 tháng 11 năm 2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Dương, thành phố Hải Phòng).

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 6 và điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Vũ Văn Đ phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách Nhà nước.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 75/2018/HS-ST ngày 22/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:75/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Dương - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về