Bản án 75/2018/HS-ST ngày 19/06/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 75/2018/HS-ST NGÀY 19/06/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 6 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 69/2018/TLST -HS ngày 23 tháng 5 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 82/2018/QĐXXST- HS ngày 04 tháng 6 năm 2018 đối với bị cáo:

- Họ và tên: Nguyễn Văn D, sinh năm 1988;

- Tên gọi khác: Không;

- Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: thôn N, xã D, huyện V, tỉnh Bắc Giang;

- Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không;

- Nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hóa: 10/12;

- Con ông: Nguyễn Văn D, sinh năm 1962;

- Con bà: Lê Thị L, sinh năm 1965;

- Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất;

- Vợ: Nguyễn Thị H, sinh năm 1993 (đã ly hôn)

- Bị cáo có 01 con sinh năm 2012;

-Tiền án:

+ Tại bản án số 92/2013/HSST ngày 08/5/2015, Tòa án nhân dân thành phốB xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

+ Tại bản án số 185/2016/HSST ngày 16/11/2016, Tòa án nhân dân thành phố B xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”;

- Tiền sự: Không;

- Nhân thân:

+ Tại Quyết định số 07/QĐ-XPHC ngày 04/6/2012, Công an phường H xửphạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trả phép chất ma túy;

+ Tại Quyết định số 214/QĐ-XPHC ngày 15/02/2016, Công an phường Lê Lợi xử phạt vi phạm hành chính về hành vi mua số lô số đề

- Bị cáo bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày06/3/2018 đến nay. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Giang. (Có mặt tại phiên tòa).

*Bị hại: Công ty TNHH xây dựng và thương mại S.

Địa chỉ: Số A đường M, phường H, thành phố B, tỉnh Bắc Giang.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Đình H, sinh năm 1975

Địa chỉ: thôn L, xã A, huyện U, tỉnh Bắc Ninh (vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt)

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Anh Cà Văn P, sinh năm 1985

ĐKHKTT: Bản P, xã M, huyện T, tỉnh Sơn La. ( vắng mặt)

2. Ông Phạm Văn P, sinh năm: 1975

Địa chỉ: Tổ dân phố số 4, phường D, thành phố B, tỉnh Bắc Giang. (vắng mặt)

- Người làm chứng:

1. Ông Nguyễn Văn K, sinh năm 1965

Địa chỉ: Tổ dân phố 7a, phường H, thành phố B, tỉnh Bắc Giang (vắng mặt).

2. Ông Đoàn Thế M, sinh năm 1959

Trú quán: Số nhà X, đường N, phường P, thành phố B, tỉnh Bắc Giang ( vắng mặt)

3. Anh Đỗ Quốc C, sinh năm 1977

Trú quán: Số nhà X, đường Nguyễn Công H, tổ 3, phường H, thành phố B, tỉnh Bắc Giang. ( vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn D, sinh năm 1988, trú tại thôn N, xã D, huyện V, tỉnh Bắc Giang và Cà Văn P sinh năm 1985, nơi ĐKHKTT: Bản P, xã M, huyện T, tỉnh Sơn La đều làm thuê cho anh Phạm Văn P sinh năm 1975 trú tại Tổ dân phố số 4, phường D, thành phố B. Nguyễn Văn D và Cà Văn P cùng thuê nhà trọ ở phường D, thành phố B. Khoảng 22 giờ ngày 05/3/2018, D rủ P đi trộm cắp tài sản lấy tiền chi tiêu cá nhân và mua ma túy để sử dụng, P đồng ý. D và P mỗi người sử dụng một xe đạp có giá chở hàng bằng gỗ đi đến công trường đang xây dựng Bệnh viện y học cổ truyền tỉnh Bắc Giang thuộc tổ dân phố 7B, phường H, thành phố B thì dừng lại, dựng xe đạp ngoài khu vực tường bao công trình. Sau khi quan sát xung quanh, D và P trèo qua tường bao vào bên trong công trường. Tại đây, D và P thấy công trường tập kết nhiều vật liệu xây dựng của Công ty TNHH xây dựng và thương mại S là chủ đầu tư công trình. D và P đi đến lần lượt trộm cắp 03 tấm cốt pha bằng kim loại, 01 thanh sắt hình chữ “U” bằng kim loại rồi vận chuyển qua tường bao mang ra chỗ dựng xe đạp. D dùng dây chằng buộc 02 tấm cốt pha vào gác ba ga xe và vác thanh sắt chữ U lên vai rồi điều khiển xe đạp mang đi tìm nơi tiêu thụ. P cũng buộc 01 tấm cốt pha vừa trộm cắp được lên gác ba ga xe đạp của P rồi đi theo sau D. Khi D và P đi đến khu vực tổ dân phố 1B, phường H, thành phố B thì bị tổ công tác Công an phường H kiểm tra. Thấy vậy, Cà Văn P để lại chiếc xe đạp chở tấm cốt pha vừa trộm cắp được bỏ chạy thoát. Lực lượng công an lập biên bản kiểm soát đối với Nguyễn Văn D, thu giữ vật chứng bao gồm: 03 tấm cốt pha bằng kim loại có kích thước (1×0,3)m, 01 thanh sắt hình chữ “U” bằng kim loại có kích thước (2,9×1×0,05)m; 02 chiếc xe đạp.

Ngày 06/03/2018, lực lượng Công an tiến hành kiểm tra trọng lượng số tài sản bị thu giữ, kết quả như sau:03 tấm cốt pha bằng sắt kích thước(01x0,3)m có trọng lượng các tấm là: 10kg; 9,7kg; 10,6 kg và 01 thanh sắt chữ "U" kích thước (2,9x0,1x0,05)m, trọng lượng: 09 kg

Ngày 06/3/2018, ông Nguyễn Đình H sinh năm 1975, trú tại thôn L, xã An Thịnh, huyện U, tỉnh Bắc Ninh là đại diện theo ủy quyền của Công ty TNHH xây dựng và thương mại S có đơn trình báo Công an thành phố B. Cùng ngày06/03/2018, Cơ quan điều tra khám nghiệm hiện trường vụ án.

Cùng ngày 06/3/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Nguyễn Văn D và triệu tập làm việc với Cà Văn P.

Ngày 13/4/2018, Cơ quan điều tra thực nghiệm điều tra vụ án. Kết quả Nguyễn Văn D và Cà Văn P đã thực hiện lại hành vi trộm cắp tài sản như đã khai tại Cơ quan điều tra.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 12/KL-HĐĐG ngày 08/3/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B, kết luận:

- 03 tấm cố pha bằng kim loại có kích thước (1x0,3)m, có tổng trọng lượng 30,3 kg, đã qua sử dụng có giá trị là: 30,3 kg x 6.000 đ/kg = 181.800 đồng

- 01 thanh kim loại hình chữ “U” có kích thước (2,9x0,1x0,05)m có tổng trọng lượng 09 kg, đã qua sử dụng có giá trị là: 09 kg x 6.000 đ/kg = 54.000 đồng

Ngày 15/4/2018, Cơ quan điều tra trả lại cho Công ty TNHH xây dựng và thương mại S tài sản bị trộm cắp, đến nay ông Nguyễn Đình H không yêu cầu bồi thường gì khác.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Văn D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Tại bản Cáo trạng số 84/KSĐT ngày 21 tháng 5 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn D về tội “Trộm cắp tài sản”theo quy định điểm b tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Hội đồng xét xử công bố lời khai của Đại diện theo ủy quyền của người bị hại là ông Nguyễn Đình H, lời khai của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Cà Văn P, ông Phạm Văn P, người làm chứng vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn D phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 1999. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn D từ 10 (mười) tháng đến 12 (mười hai) tháng tù, thời gian tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 06/3/2018.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3. Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: tịch thu sung công quỹ nhà nước 01chiếc xe đạp loại xe cào cào, màu sơn đen, trên khung xe có chữ “Mars”

4. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về tội danh: Khoảng 22 giờ ngày 05/3/2018, tại khu vực công trường đang xây dựng Bệnh viện y học cổ truyền tỉnh Bắc Giang thuộc tổ dân phố 7B, phường H, thành phố B, Nguyễn Văn D và Cà Văn P có hành vi cùng nhau trộm cắp 03 tấm cốt pha, 01 thanh sắt hình chữ “U” bằng kim loạicó tổng trọng lượng là 39,3 kg có tổng giá trị 235.800 đồng của Công ty TNHH xây dựng và thương mại S. Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo, lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, lời khai người làm chứng, Biên bản kiểm soát ngày 05/3/2018 của Công an phường H đối với Nguyễn Văn D, tài sản trộm cắp trị giá 235.000đồng và bị cáo có 01 tiền án về tội trộm cắp tài sản đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo phạm tội "Trộm cắp tài sản" được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thành phố B truy tố bị cáo về tội danh và điều khoản trên là có căn cứ và đúng pháp luật.

[3]. Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Hành vi của bị cáo thuộc trường hợp ít nghiêm trọng theo quy định của Bộ luật hình sự, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo thực hiện hành vi một cách liều lĩnh, lén lút chiếm đoạt tài sản, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an tại địa P, gây hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân. Do đó, phải xử lý bị cáo bằng pháp luật hình sự nhằm mục đích giáo dục riêng và phòng ngừa chung đối với loại tội phạm này.

[4]. Xét về nhân thân của bị cáo thì thấy:

Tiền án: Bị cáo có 02 tiền án, trong đó có 01 tiền án về tội Trộm cắp tài sản và 01 tiền án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Bị cáo đã nhiều lần bị xử phạt, hành chính nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà lại tiếp tục phạm tội. Do vậy, cần phải có hình phạt tương xứng đối với hành vi phạm tội của bị cáo.

[5]. Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Tại giai đoạn điều tra và trước phiên toà hôm nay bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình đã gây ra, bị cáo phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại, tài sản trộm cắp đã được thu hồi trả lại cho người bị hại. Đây là những tình tiết để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6]. Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Bị cáo phạm tội trong thời gian chưa được xóa án tích nên phải chịu tình tiết tăng nặng quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[7]. Do bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, hoàn cảnh gia khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8]. Đối với Cà Văn P có hành vi trộm cắp tài sản nhưng do giá trị tài sản bị trộm cắp dưới 2.000.000 đồng, bản thân P chưa có tiền án, tiền sự về hành vi chiếm đoạt nên không cấu thành tội phạm. Ngày 13/4/2018, Công an thành phố B đã quyết định xử phạt vi phạm hành chínhđối với Cà Văn P (phạt tiền 1.500.000 đồng) là đúng quy định của pháp luật.

[9]. Đối với chiếc xe đạp mini, màu sơn trắng – bạc, trên gác ba ga có giá trở hàng bằng gỗ mà Cà Văn P sử dụng để đi trộm cắp tài sản, qua điều tra xác định được là xe Cà Văn P mượn của anh Phạm Văn P. Khi cho mượn xe, anh Phạm Văn P không biết Cà Văn P sử dụng đi trộm cắp tài sản. Ngày 14/4/2018, Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh Phạm Văn P chiếc xe đạp trên là đúng quy định của pháp luật. [10]. Về trách nhiệm dân sự: Cơ quan điều tra đã thu hồi và trả lại Công ty TNHH S toàn bộ tài sản bị trộm cắp, trả lại anh Phạm Văn P chiếc xe đạp mà anh Cà Văn P sử dụng. Đến nay Công ty TNHH S và anh Phạm Văn P không yêu cầu bồi thường dân sự nên không đặt ra xem xét giải quyết.

[11]. Đối với chiếc xe đạp loại xe cào cào, màu sơn đen, trên khung xe có chữ “Mars”, là xe đạp của D, D sử dụng vào mục đích trộm cắp tài sản, cần tịch thu sung công quỹ nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự.

[12]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

[13]. Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại các Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn D phạm tội "Trộm cắp tài sản".

2. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn D 08 (tám) tháng tù, thời gian tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 06/3/2018.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự. Điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu sung công quỹ nhà nước: 01(một) chiếc xe đạp cào cào, màu sơn đen, trên khung xe có chữ “Mars” đã qua sử dụng; (Vật chứng của vụ án được chuyển giao cho Chi cục thi hành án dân sự thành phố B theo Quyết định chuyển vật chứng số 73/QĐ- VKS ngày 21/5/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B).

4.Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận tống đạt hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

281
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 75/2018/HS-ST ngày 19/06/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:75/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về