Bản án 75/2018/HS-ST ngày 14/09/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ DẦU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 75/2018/HS-ST NGÀY 14/09/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 9 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 75/2018/TLST- HS ngày 03 tháng 8 năm 2018 đối với bị cáo:

Võ Hồng T , tên gọi khác: không có, sinh năm 1987, tại tỉnh Nghệ An. Nơi cư trú: xóm T, xã M, thị xã H, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Không có; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Hồng Cảnh, sinh năm 1956 và bà Trần Thị Toàn, sinh năm 1961; vợ, con: Chưa có; tiền án: Ngày 31-5-2017, bị Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Hình sự 1999; tiền sự: Không có. Bị cáo bị tạm giữ ngày 19-4-2018 đến ngày 27-4-2018 bị tạm giam cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Bà Nguyễn Thị Ngọc, sinh năm 1967; Địa chỉ: Ấp 1, xã P, huyện D, tỉnh Tây Ninh (vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Võ Thị Thảo, sinh năm: 1994; Địa chỉ: Khu phố 1, phường B, Thị xã A, tỉnh Bình Dương (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 30 phút, ngày 19-4-2018, Tài (không rõ họ tên và địa chỉ) rủ bị cáo Võ Hồng T đi trộm cắp xe mô tô bán lấy tiền tiêu xài, bị cáo đồng ý. Tài gọi điện thoại cho bạn gái (không rõ tên và địa chỉ) mang túi xách màu đen, bên trong có chứa đoản bẻ khóa hình chữ T và biển số giả 59X2-779.92, sau đó bạn gái của Tài đi về. Tài lấy biển số 59X2-779.92 lắp vào xe mô tô Exciter màu trắng - đen (xe này bị cáo mượn của em ruột là Võ Thị Thảo ở tỉnh Bình Dương nói để đi chơi). Tài chở bị cáo từ Suối Sâu, xã An Tịnh huyện Trảng Bàng dọc theo Quốc lộ 22 về thị trấn Trảng Bàng để tìm xe mô tô không người trông coi trộm cắp, bán lấy tiền tiêu xài. Cả hai chuẩn bị công cụ bẻ khóa là đoản hình chữ T, khi điều khiển xe đến ngả ba Xóm Đồng rẻ vào hướng ấp Xóm Đồng, xã Thanh Phước, huyện Gò Dầu thì phát hiện phía trước nhà bà Nguyễn Thị Ngọc thuộc ấp Trâm Vàng 1, xã Thanh Phước có xe mô tô hiệu Honda, loại Wave Alpha, biển số 70C-186.01 để trước cửa nhà nhưng không thấy có người trông giữ, Tài dừng xe ở ngoài đường cảnh giới, bị cáo lén lút đi vào và dùng đoản chữ T bẻ ổ khóa xe mô tô trên để lấy cắp thì bị người dân phát hiện và truy hô nên bị cáo bỏ lại tài sản chạy ra đường lên xe Tài chở đi tẩu thoát thì bị quần chúng nhân dân truy đuổi bắt giữ bị cáo cùng với tang vật, Tài chạy thoát.

Theo Kết luận định giá tài sản số 32 ngày 27/4/2018 của Hội đồng định giá tài sản thuộc Ủy ban nhân dân huyện Gò Dầu kết luận: Xe mô tô hiệu Honda Wave Alpha màu đen-bạc, biển số 70C1-186.01, có giá trị là 13.200.000 đồng.

Vật chứng thu giữ: Xe môtô hiệu Yamaha, loại Exciter, màu trắng-đen, gắn biển số kiểm soát 59X2-779.92 (đây là biển số giả); Một thanh kim loại hình chữ T, một đầu dẹp; Một đôi giày màu đen, đế giày màu trắng; Một mũ bảo hiểm màu nâu- trắng hiệu Datha; Một túi xách màu đen; Một điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu xanh-đen hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh đang tạm giữ chờ xử lý.

Về bồi thường thiệt hại: do bị cáo chưa trộm được xe nên bà Nguyễn Thị Ngọc không đặt ra yêu cầu bồi thường mà chỉ yêu cầu xử lý bị cáo theo đúng quy định pháp luật.

Về kê biên tài sản: Do bị cáo không có tài sản nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh không kê biên.

Đối với người tên Tài và bạn gái của Tài do chưa xác định được họ tên, địa chỉ nên Cơ quan điều tra tiếp tục làm rõ xử lý sau.

Tại Cáo trạng số 76/QĐ/KSĐT ngày 02-8-2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Dầu đã truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Dầu vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 03 năm đến 04 năm tù; Xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.

Lời nói sau cùng của các bị cáo: bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là sai, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Gò Dầu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Dầu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Tại phiên tòa, lời khai của bị cáo phù hợp với những chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, đã đủ căn cứ xác định: Vào khoảng 11 giờ 30 phút ngày 19-4-2018, Tài (không rõ họ tên và địa chỉ) rủ bị cáo Võ Hồng T tìm xe mô tô không người trông coi trộm cắp, bán lấy tiền tiêu xài, bị cáo đồng ý. Cả hai đã bàn bạc, phân công việc thực hiện tội phạm, chuẩn bị công cụ bẻ khóa là đoản hình chữ T và điều khiển xe mô tô Exciter màu trắng - đen gắn biển số giả 59X2-779.92, bị cáo mượn của em ruột là Võ Thị Thảo nói để đi chơi, đến trước nhà bà Nguyễn Thị Ngọc thuộc ấp Trâm Vàng 1, xã Thanh Phước phát hiện xe mô tô hiệu Honda, loại Wave Alpha, biển số 70C-186.01 để trước cửa nhà nhưng không thấy có người trông giữ, Tài dừng xe ở ngoài đường cảnh giới, bị cáo lén lút đi vào và dùng đoản chữ T bẻ ổ khóa xe để lấy trộm thì bị người dân phát hiện và truy hô nên bị cáo bỏ lại tài sản, chạy ra đường lên xe Tài chở đi tẩu thoát thì bị quần chúng nhân dân truy đuổi bắt giữ bị cáo cùng với tang vật, Tài chạy thoát. Do đó, hành vi của bị cáo xét thấy đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

 [3] Hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến tài sản của người khác được luật pháp bảo vệ, ảnh hưởng đến trật tự xã hội tại địa phương. Bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, cần cách ly bị cáo ra xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo thành công dân tốt. Khi quyết định hình phạt, cân nhắc các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Bị cáo đã phạm tội khi chưa được xóa án tích nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Xét thấy bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, do đó, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, bị cáo khai ông nội có công cách mạng nhưng không cung cấp chứng cứ chứng minh, nên không có cơ sở xem xét. Qua điều tra, bị cáo không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

 [4] Vấn đề khác: Đối với người tên Tài và bạn gái của Tài do chưa xác định được họ tên, địa chỉ nên Cơ quan điều tra tiếp tục làm rõ xử lý sau.

 [5] Vật chứng thu giữ: Xe môtô hiệu Yamaha, loại Exciter, màu trắng- đen, gắn biển số kiểm soát 59X2-779.92 (đây là biển số giả), biển số thật là 30D1-190.80. Giấy chứng nhận đăng ký xe do chị Trần Thị Nga đứng tên, chị Võ Thị Thảo mua lại của chị Nga nhưng chưa sang tên, chị Thảo cho bị cáo mượn để đi chơi, không biết bị cáo dùng làm phương tiện phạm tội, nên trả lại cho chị Thảo; Biển số giả 59X2-779.92, Một thanh kim loại hình chữ T, một đầu dẹp, Một đôi giày màu đen, đế giày màu trắng, Một mũ bảo hiểm màu nâu- trắng hiệu Datha và Một túi xách màu đen tịch thu tiêu hủy; Một điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu xanh-đen tịch thu nộp ngân sách nhà nước (Vật chứng hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh đang tạm giữ).

 [6] Về án phí: Bị cáo phạm tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Võ Hồng T phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 và điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Võ Hồng T 03 (Ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 19-4-2018.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Trả cho chị Võ Thị Thảo 01 xe môtô hiệu Yamaha, loại Exciter, màu trắng-đen, biển số kiểm soát là 30D1-190.80; Tịch thu tiêu hủy biển số giả59X2-779.92, 01 thanh kim loại hình chữ T, một đầu dẹp, 01 đôi giày màu đen,đế giày màu trắng, 01mũ bảo hiểm màu nâu- trắng hiệu Datha và 01 túi xách màu đen; Tịch thu nộp  ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu xanh-đen (Vật chứng hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh đang tạm giữ).

3. Án phí: Áp dụng Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng bị hại vắng mặt tại phiên tòa thì có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

314
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 75/2018/HS-ST ngày 14/09/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:75/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gò Dầu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về