TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TÂY NINH
BẢN ÁN 75/2018/HNGĐ-ST NGÀY 27/09/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 27 tháng 9 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 80/2017/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 11 năm 2017 về tranh chấp ly hôn. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 68/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 8 năm 2018, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị T, sinh năm 1991; địa chỉ: Số 1378, Tổ 24, ấp KT, xã CK, Huyện DMC, tỉnh Tây Ninh, (vắng mặt - có đơn xin xét xử vắng mặt).
2. Bị đơn: Anh C, sinh năm 1987; địa chỉ: Số 4, QCC, Khóm 001, thôn TB, làng DH, huyện GN, Đài Loan, (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị T trình bày:
Chị và anh C sau khi quen biết một thời gian cả hai quyết định tiến tới hôn nhân,có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ngày 11 tháng 10 năm 2011.
Sau khi đăng ký kết hôn chị và anh C sinh sống tại nhà chị. Trong thời gian sinh sống tại nhà chị, anh C có làm thủ tục để bảo lãnh chị sang Đài Loan sinh sống nhưng không được.
Đến ngày 20 tháng 12 năm 2012 anh C về Đài Loan và không quay lại Việt Nam. Cả hai không gặp nhau, do không được gặp nhau, gần gũi nhau nên dần phát sinh mâu thuẩn, đến nay mâu thuẩn càng trầm trọng, cảm thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được và không thể hàn gắn nên chị yêu cầu được ly hôn anh C.
Về con chung: Không có, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung và nợ chung: Không có, nên không yêu cầu tòa án giải quyết.
Bị đơn anh C đã được Tòa án tống đạt thông báo thụ lý vụ án, trong đó nêu rõ thời gian, địa điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải (sau đây gọi chung là phiên họp hòa giải), mở lại phiên họp hòa giải, mở phiên tòa và mở lại phiên tòa trong văn bản thông báo thụ lý vụ án và đã nhận được kết quả tống đạt nhưng anh C vắng mặt.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh tham gia phiên tòa:
Về tố tụng: Thẩm phán thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ, tống đạt thông báo, văn bản cho đương sự, giao thông báo thụ lý, quyết định đưa vụ án ra xét xử cho Viện kiểm sát đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị T.
Về con chung, nợ chung và tài sản chung chị T trình bày không có nên không giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, xét thấy:
[1] Về tố tụng: Chị T có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, anh C đã được Tòa án tống đạt thông báo thụ lý vụ án, trong đó nêu rõ thời gian, địa điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải (sau đây gọi chung là phiên họp hòa giải), mở lại phiên họp hòa giải, mở phiên tòa và mở lại phiên tòa trong văn bản thông báo thụ lý vụ án và đã nhận được kết quả tống đạt nhưng anh C vắng mặt. Tòa án căn cứ khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt chị T và anh C.
[2] Về nội dung: Chị T và anh C tự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn do Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 11 tháng 10 năm 2011. Sau khi kết hôn hai vợ chồng số cùng nhau được hơn một năm thì ngày 20-12-2012 anh C về Đài Loan sinh sống còn chị T sống tại Việt Nam và hai vợ chồng không gặp nhau. Theo quy định tại Điều 19 của Luật Hôn nhân và Gia đình thì vợ chồng phải có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình nhưng hai bên không thực hiện nghĩa vụ vợ chồng theo quy định trên.
Nay chị T sống tại Việt Nam còn anh C sống tại Đài Loan chị T xác nhận tình cảm vợ chồng không còn và yêu cầu được ly hôn anh C.
Hội đồng xét xử xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị T và anh C trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt, vợ chồng không có khả năng đoàn tụ nên có căn cứ chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị T.
Về con chung, tài sản chung và nợ chung: Chị T trình bày không có nên khôngđặt ra giải quyết.
[3] Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh đề nghị chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị T, Hội đồng xét xử xét thấy phù hợp nên chấp nhận.
[4] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị T là nguyên đơn nên phải chịu 300.000 đồng tiền án phí sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị T đối với anh C.
2. Cho chị T ly hôn anh C.
3. Về con chung, tài sản chung và nợ chung: Chị T trình bày không có nên không đặt ra giải quyết.
4. Về án phí: Chị T phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí sơ thẩm, được khấu trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0000382 ngày 03 tháng 11 năm 2017, của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Tây Ninh.
5. Chị T được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Anh C được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ
Chí Minh, Việt Nam trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.
Bản án 75/2018/HNGĐ-ST ngày 27/09/2018 về tranh chấp ly hôn
Số hiệu: | 75/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Tây Ninh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 27/09/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về