Bản án 75/2018/HNGĐ-ST ngày 26/12/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẨM PHẢ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 75/2018/HNGĐ-ST NGÀY 26/12/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Trong ngày 26 tháng 12 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả,tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 444/2018/TLST - HNGĐ ngày 29/10/2018 về việc: "Tranh chấp về ly hôn, nuôi con chung", theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 81/2018/QĐXXST - HNGĐ ngày 27/11/2018; quyết định hoãn phiên tòa số 53/2018/QĐST-HNGĐ, ngày 13/12/2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị Hồng N; sinh năm 1990; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 1, khu B, phường H, thành phố C, tỉnh Quảng Ninh - Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Ma Mạnh H, sinh năm 1990; Nơi đăng ký hộ khẩu thườngtrú : Khu C, thị trấn L, huyện L, tỉnh Quảng Ninh.

Chỗ ở : Tổ 1, khu B, phường H, thành phố C, tỉnh Quảng Ninh - Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 04/10/2018, bản tự khai ngày 09 tháng 11 năm 2018, nguyên đơn là chị Trần Thị Hồng N khai:

+ Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị Hồng N và anh Ma Mạnh H tự nguyện kết hôn, đăng ký kết hôn ngày 20/01/2015 và được Ủy ban nhân dân thị trấn L, huyện L, tỉnh Quảng Ninh cấp giấy chứng nhận kết hôn. Trước khi kết hôn chị N và anh H có thời gian tìm hiểu nhau 04 năm, chị N vµ anh H®ều chưa ai có vợ có chồng. Sau khi kết hôn, vợ chồng chị về chung sống tại gia đình nhà chồng tại: Khu Cô, thị trấn L, huyện L, tỉnh Quảng Ninh được khoảng 03 tháng, sau đó vợ chồng chuyển về chung sống tại gia đình nhà mẹ đẻ chị Trần Thị Hồng N tại: Tổ 1, khu B, phường H, thành phố C, tỉnh Quảng Ninh và sinh sống cho đến nay. Vợ chồng sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng không tìm được tiếng nói chung, vợ chồng bất đồng nhau về quan điểm sống. Ngoài ra, anh H không tu trí làm ăn, không quan tâm chăm sóc gia đình, ham chơi cùng bạn bè, mặc dù chị đã góp ý nhưng anh H không thay đổi mà còn có những lời nói xúc phạm chị và gia đình nhà chị. Anh H ở cùng gia đình chị nhưng anh H không tôn trọng bố mẹ chị, dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng. Tuy vợ chồng vẫn sống chung một nhà, nhưng đã sống ly thân, không còn quan hệ tình cảm từ tháng 12 năm 2017 cho đến nay. Đến nay, mâu thuẫn vợ chồng giữa chị và anh H đã thật sự trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, chị yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả giải quyết cho chị được ly hôn với anh Ma Mạnh H.

+ Về con chung: Chị Trần Thị Hồng Nxác định chị và anh Ma Mạnh H có 01 con chung, họ tên là Ma Mộc Thảo T sinh ngày bbbbbb. Khi ly hôn, chị Nyêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung đến tuổi thành niên (đủ 18) tuổi; Chị N không yêu cầu anh Ma Mạnh H phải cấp dưỡng cho con.

+ Về tài sản chung: Chị Trần Thị Hồng Nxác định chị và anh Ma Mạnh H không có tài sản chung, vì vậy, chị Nkhông yêu cầu Tòa án giải quyết.

+ Về quyền, nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng: Chị Trần Thị Hồng N xác định chị và anh Ma Mạnh H không có quyền, nghĩa vụ chung về tài sản đối với người thứ ba, vì vậy, chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản xác minh, thu thập chứng cứ ngày 15/11/2018 có sự tham gia của ông Nguyễn Văn H là khu trưởng khu B, phường H, thành phố C, có nội dung: Chị Trần Thị Hồng Nvà anh Ma Mạnh H có sinh sống tại địa phương từ năm 2016, trong cuộc sống chung của vợ chồng chị N, anh H, tổ dân khu phố thấy hai vợ chồng có nhiều mâu thuẫn, vợ chồng bất đồng quan điểm sống và cách nuôi dạy con cái, tính cách không hợp nhau, quan hệ vợ chồng ngày càng căng thẳng, thường xuyên cãi vã lẫn nhau. Trong quá trình chung sống, anh Hthường xuyên ham chơi với bạn, không quan tâm đến gia đình và có những lời nói xúc phạm gia đình nhà vợ, tổ dân, khu phố đã tổ chức hòa giải nhưng anh Hkhông hợp tác và bỏ đi. Từ những mâu thuẫn của vợ chồng chị N, anh H, quan điểm của tổ dân, khu phố 4B là đề nghị Tòa án giải quyết quan hệ hôn nhân giữa chị N và anh H theo qui định của pháp luật.

Tòa án đã tiến hành tống đạt thông báo thụ lý vụ án trực tiếp cho anh H, ngày 15/11/2018 anh H có mặt tại Tòa án để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quá trình làm việc, anh Hđãtỏ thái độ bất hợp tác, sau đó tự ý bỏ về, vì vậy, phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải không thể tiến hành được. 

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tiến hành các thủ tục tố tụng theo đúng qui định của Bộ luật tố tụng Dân sự; Nguyên đơn thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo qui định của Bộ luật tố tụng Dân sự; Bị đơn không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo qui định của Bộ luật tố tụng Dân sự. Có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà; Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh Ma Mạnh H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, nhưng vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Theo qui định tại Điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh Ma Mạnh H.

[2] Về hôn nhân:

Quan hệ hôn nhân giữa chị Trần Thị Hồng N và anh Ma Mạnh H là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ, quá trình chung sống vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn do bất đồng về quan điểm sống và cách nuôi dạy con cái, tính cách không hợp nhau, quan hệ vợ chồng ngày càng căng thẳng, thường xuyên cãi vã lẫn nhau. Từ tháng 12 năm 2017 cho đến nay, chị N, anh H đã sống ly thân mỗi người một nơi, không còn quan hệ tình cảm, không quan tâm đến nhau nữa, đã gây ảnh hưởng xấu đến quan hệ hôn nhân. Tại phiên tòa chị Nvẫn giữ nguyên quan điểm yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Ma Mạnh H, như vậy chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa chị N và anh Hđã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Chị N yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Ma Mạnh H là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về con chung và cấp dƣỡng cho con:

[3.1] Về con chung

Chị Trần Thị Hồng N và anh Ma Mạnh H có 01 con chung, họ tên là Ma Mộc Thảo T, sinh ngày bbbbbb

Xét yêu cầu của chị Ninh thấy: Chị N có yêu cầu khi ly hôn, chị là người được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là cháu Ma Mộc Thảo T, sinh ngày bbbbbb đến tuổi thành niên. Xét thấy chị N hiện nay đang có công việc ổn định tại Công ty Cổ phần Đầu tư - Giải trí – Giáo dục Ngôi Sao Xanh, thu nhập bình quân là 9.305.405đ một tháng, có nơi ở, sinh hoạt ổn định tại nhà của mẹ đẻ, có các điều kiện cần thiết đảm bảo cho việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, con chung còn rất nhỏ tuổi, rất cần sự chăm sóc trực tiếp của người mẹ. Tuy nhiên, trong suốt quá trình tiến hành tố tụng, giải quyết vụ án, anh Ma Mạnh H đã không đến Tòa án để thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình, vì vậy, đây thuộc trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định, giao con cho một bên trực tiếp nuôi dưỡng, căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con. Từ những đánh giá nêu trên, Hội đồng xét xử thấy yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung sau ly hôn của chị Trần Thị Hồng N là có căn cứ, phù hợp với qui định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, nên được chấp nhận.

[3.2] Về cấp dưỡng cho con:

Quá trình giải quyết vụ án, chị Trần Thị Hồng N không yêu cầu anh Ma Mạnh H phải cấp dưỡng cho con, Hội đồng xét xử xét thấy đây là quyết định cá nhân của chị Trần Thị Hồng N, cần được tôn trọng, nên được chấp nhận.

[3.3] Về tài sản chung, công nợ chung:

Chị Trần Thị Hồng N xác định cả hai vợ chồng không có tài sản chung, không có công nợ chung, chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết, vì vậy Hội đồng xét xử không xét.

[4] Về án phí:

Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án thì chị Trần Thị Hồng N phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 4 Điều 147; Điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 56; Khoản 2 Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án

 Tuy ên xử

1. Về hôn nh ân : Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của Chị Trần Thị Hồng N

Cho ly hôn giữa chị Trần Thị Hồng N và anh Ma Mạnh H

2. Về con chung: Chấp nhận yêu cầu nuôi con chung của chị Trần Thị

Hồng N

2.1. Giao con chung Ma Mộc Thảo T, sinh ngày bbbbbb cho chị Trần Thị

Hồng N được trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi thành niên (đủ 18 tuổi)

2.2. Anh Ma Mạnh Hùng không phải đóng góp nuôi con với chị Trần Thị Hồng N.

2.3. Anh Ma Mạnh H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí:

Chị Trần Thị Hồng N phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp tại Biên lai thu tiền số 0004241 ngày 29/10/2018 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cẩm Phả.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Trần Thị Hồng N có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Ma Mạnh H có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án, hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 75/2018/HNGĐ-ST ngày 26/12/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:75/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cẩm Phả - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/12/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về