Bản án 74/HNGĐ-ST ngày 29/09/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THÁI THỤY, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 74/HNGĐ-ST NGÀY 29/09/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 29 tháng 9 năm 2020 tại Phòng xét xử Toà án nhân dân huyện Thái Thụy xét xử sơ thẩm vụ án thụ lý số 79/2020/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 3 năm 2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 61a/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 8 năm 2020, Quyết định hoãn phiên tòa số 36a/2020/QĐST-HNGĐ ngày 10 tháng 9 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị D, sinh năm 1978.(Có đơn xin xét xử vắng mặt)

Bị đơn: Anh Nguyễn Văn V, sinh năm 1968. (Vắng mặt lần 2) Đều trú tại: thôn M, xã B, huyện H, tỉnh Thái Bình.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Tại đơn khởi kiện xin ly hôn và trong quá trình giải quyết vụ án chị D trình bày: Chị và anh V tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn năm 1999 tại UBND xã B, huyện H, tỉnh Thái Bình. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống và làm ăn tại địa phương, do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm, không có tiếng nói chung nên vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn. Vợ chồng đã sống ly thân đã 08 năm nay, mỗi người một nơi không ai còn quan tâm đến nhau nữa, nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, có chung sống với nhau cũng không có hạnh phúc nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Vĩnh.

Về con chung: Vợ chồng có 02 chung là Nguyễn Văn P, sinh ngày 12/6/2000 và Nguyễn Văn A, sinh ngày 18/4/2005. Hiện nay cháu P đã thành niên nên chị không yêu cầu giải quyết. Chị đề nghị được trực tiếp nuôi cháu A và không yêu cầu anh V phải cấp dưỡng nuôi con chung cho chị.

Về tài sản chung: Chị xác định chị và anh V không có tài sản chung, nợ chung nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án anh V không đến làm việc, Tòa án tiến hành xác minh tại UBND xã B, huyện H, tỉnh Thái Bình và lấy lời khai của ông Nguyễn Văn B (là bố anh V). Tại biên bản lấy lời khai ông B xác nhận gia đình đã nhận được các văn bản của Tòa án và đã thông báo cho anh V biết Tòa án giải quyết vụ án, nhưng hiện tại anh V đi làm ăn xa, thi thoảng mới về gia đình, quan điểm của gia đình là đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn cho chị D và anh V theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy phát biểu ý kiến: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án đều đúng quy định của pháp luật, việc bị đơn đã được triệu tập hợp lệ hai lần nhưng vẫn vắng mặt không có lý do là vi phạm nghĩa vụ của đương sự theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân gia đình xử cho chị Nguyễn Thị D được ly hôn anh Nguyễn Văn V, giao con chung là Nguyễn Văn A, sinh ngày 18/4/2005 cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng, chấp nhận việc chị D không yêu cầu anh V phải cấp dưỡng nuôi con chung chị. Về tài sản chung, nợ chung: Do đương sự không yêu vầu nên không đặt ra giải quyết, chị D phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

Quá trình giải quyết vụ án và đơn xin xét xử vắng mặt, chị D vẫn giữ nguyên yêu cầu trên, không thay đổi, bổ sung gì. Còn bị đơn là anh V đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn cố tình vắng mặt không đến tham gia phiên tòa nên Hội đồng xét xử căn cứ vào lời khai của ông B và biên bản xác minh tại chính quyền địa phương có trong hồ sơ để giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra công khai tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt, vì vậy căn cứ vào Điều 228, Hội đồng xét xử tiếp tục tiến hành xét xử vụ án.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Việc kết hôn giữa chị D và anh V là hợp pháp, trong quá trình chung sống, vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn nhưng cả hai đều không có biện pháp hàn gắn hạnh phúc gia đình dẫn đến mâu thuẫn trở nên trầm trọng, hiện vợ chồng đã sống ly thân đã 08 năm nay, mỗi người một nơi, không ai còn quan tâm gì đến nhau nữa. Như vậy mục đích hôn nhân của anh chị không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài. Vì vậy, cần áp dụng Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân gia đình xử cho chị D được ly hôn anh V.

[3]. Về con chung : Chị D và anh V có 02 con chung là Nguyễn Văn P, sinh ngày 12/6/2000 và Nguyễn Văn A, sinh ngày 18/4/2005. Hiện nay cháu P đã thành niên nên chị không yêu cầu giải quyết. Chị D đề nghị được trực tiếp nuôi con Nguyễn Văn A, mặt khác cháu A cũng có nguyện vọng được ở với mẹ. Vì vậy Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết giao cháu A cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp, chị D không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con cho chị là sự tự nguyện, cần chấp nhận.

[4]. Về tài sản chung: Chị D xác định vợ chồng không có tài sản chung, nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra giải quyết.

[5]. Về án phí: Chị D phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 53, 56, 57, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 28, 35, 39, 147, 228, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH về án phí, lệ phí Toà án.

1. Về quan hệ hôn nhân:

Xử cho chị Nguyễn Thị D được ly hôn anh Nguyễn Văn V.

2. Về con chung:

Giao con chung Nguyễn Văn A, sinh ngày 18/4/2005 cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng. Chị D không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con cho chị. Anh V có quyền đi lại thăm nom, giáo dục con chung, không ai được ngăn cản. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con, cấp dưỡng nuôi con được đặt ra giải quyết khi đương sự có yêu cầu.

3. Về tài sản chung, nợ chung:

Chị D không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét giải quyết.

4. Về án phí:

Chị D phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, chuyển 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí chị D đã nộp theo biên lai số 0002171 ngày 12/3/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình sang thi hành án phí, chị D đã nộp xong án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Anh Nguyễn Văn V và chị Nguyễn Thị D có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 74/HNGĐ-ST ngày 29/09/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:74/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thái Thụy - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về