Bản án 747/2019/HS-PT ngày 27/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 747/2019/HS-PT NGÀY 27/11/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 457/2019/TLPT-HS ngày 16 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo Vũ Xuân T và bị cáo Ngô Xuân K do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 248/2019/HS-ST ngày 10/07/2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

- Các bị cáo có kháng cáo:

1. Vũ Xuân T, sinh năm 1994 tại Hải Phòng; nơi đăng ký HKẾTT: Thôn M, xã T, huyện T, Thành phố H; tạm trú: Phòng 03, số 166 đường C, phường T, quận T, Thành phố H; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Văn Chiến và bà Cao Thị Nhi; hoàn cảnh gia đình: có vợ (đã ly hôn) và 01 con sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giam ngày 15/9/2017; (có mặt).

Người bào chữa theo chỉ định cho bị cáo Vũ Xuân T: Ông Hồ Hoài Nhân – Luật sư thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, (có mặt).

2. Ngô Xuân K, sinh năm 1986 tại Hải Phòng; nơi đăng ký HKẾTT: Thôn M, xã T, huyện T, Thành phố H; tạm trú: Phòng 03, số 166 đường C, phường T, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô Văn Kin và bà Phạm Thị Thêu; hoàn cảnh gia đình: chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giam ngày 16/9/2017; (có mặt).

Người bào chữa theo chỉ định cho bị cáo Ngô Xuân K: Ông Đỗ Hải Bình – Luật sư thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, (có mặt).

- Bị cáo không có kháng cáo: Phạm Ngọc Thắng, sinh năm 1977.

Ngoài ra, còn có bị cáo Phạm Ngọc Thắng và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị, Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ti ngày 15/9/2017, Phạm Ngọc Thắng điện thoại cho Vũ Xuân T đến gặp Hoàng Thị Quyên (bạn gái Thắng) nhận 100.000.000 đồng để đi mua thuốc lắc từ đối tượng tên Tuấn (không rõ lai lịch) tại ngã tư B, quận T, Thành phố H. Sau khi T nhận ma túy xong, Thắng cho T số điện thoại của Hải (không rõ lai lịch) để T đem ma túy đi bán. Khoảng 21 giờ 15 phút cùng ngày, khi T điều khiển xe gắn máy biển số 59K1- 49481 đến khu vực cây xăng ngã tư CN1 - Tây Thạnh, phường T, quận T thì bị bắt quả tang, thu giữ 01 túi nylon chứa 495 viên nén màu hồng khắc hình chim đại bàng, Kết quả giám định là ma túy ở thể rắn có khối lượng 173,8031 gram, loại MDMA.

Chiều ngày 16/9/2017, Hải liên lạc đặt mua thêm 500 viên thuốc lắc nên sau đó Thắng điện thoại cho Ngô Xuân K, nói sẽ có người đến nhà giao ma túy cho K bảo K ra nhận. Khoảng 16 giờ cùng ngày có một người đàn ông (không rõ lai lịch) đi xe gắn máy hiệu wave màu xanh giao cho K 01 bịch nylon bên trong chứa thuốc lắc. Sau đó K điện thoại cho người mua ma túy và hẹn địa điểm giao nhận ma túy tại đường Chế Lan Viên nhưng chưa kịp giao thì bị bắt quả tang tại trước nhà số 85 Chế Lan Viên, phường T, quận T, thu giữ 01 bịch nylon bên trong chứa 450 viên nén màu hồng trên bề mặt có khắc hình chim đại bàng, Kết quả giám định là ma túy ở thể rắn có khối lượng 154,79 gram, loại MDMA.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 248/2019/HS-ST ngày 10/7/2019, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Vũ Xuân T và Ngô Xuân K phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm e khoản 3 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009; Điều 17; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Xử phạt Vũ Xuân T 17 (mười bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 15/9/2017.

- Áp dụng điểm e khoản 3 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009; Điều 17; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt Ngô Xuân K 16 (mười sáu) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/9/2019.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên phạt bị cáo Phạm Ngọc Thắng 20 (hai mươi năm tù) về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; tuyên buộc các bị cáo nộp phạt tiền để sung quỹ Nhà nước, tuyên về xử lý vật chứng, án phí sơ thẩm và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 11/7/2019, bị cáo Ngô Xuân K có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt với lý do: Mức án mà cấp sơ thẩm tuyên đối với bị cáo là quá nặng.

Ngày 22/7/2019, bị cáo Vũ Xuân T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt với lý do: Mức án mà cấp sơ thẩm tuyên đối với bị cáo là quá nặng.

Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Vũ Xuân T, Ngô Xuân K vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo nêu trên.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát đối với kháng cáo của các bị cáo Vũ Xuân T và Ngô Xuân K: Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử các bị cáo Vũ Xuân T và Ngô Xuân K về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm e khoản 3 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 là phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có căn cứ, đúng quy định pháp luật. Mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định xử phạt đối với bị cáo T và bị cáo K là tương xứng với tính chất, mức độ tham gia phạm tội của từng bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Vũ Xuân T và Ngô Xuân K kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không đưa ra được tình tiết nào mới nên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm bác kháng cáo của bị cáo T và bị cáo K; giữ nguyên quyết định về tội danh và hình phạt của bản án sơ thẩm đối với các bị cáo.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Vũ Xuân T trình bày: Kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo T là có cơ sở, vì bị cáo không biết bên trong túi nylon mà Phạm Ngọc Thắng nhờ chuyển giao cho Hải có chứa ma túy. Bị cáo T chỉ làm giùm theo sự chỉ dẫn của Thắng và cũng không nhận lợi ích vật chất gì từ việc này. Mặc khác, khi lượng hình Tòa án cấp sơ thẩm chưa xem xét các tình tiết bị cáo T có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo T.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Ngô Xuân K trình bày: Bị cáo K chỉ là nạn nhân vô tình giúp sức cho Phạm Ngọc Thắng thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, cũng như phúc thẩm, bị cáo K khai nhận về hành vi phạm tội của bị cáo đúng thực tế khách quan, không thuộc T hợp quanh co nhằm chối tội, nên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét áp dụng thêm tình tiết thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo K.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Đơn kháng cáo của các bị cáo Vũ Xuân T và Ngô Xuân K nộp trong thời hạn và đúng thủ tục theo quy định của pháp luật nên hợp lệ; được xem xét theo trình tự phúc thẩm:

[1] Về tố tụng:

Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án ở giai đoạn sơ thẩm, các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do vậy, các hành vi, các quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là hợp pháp. Quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, các luật sư bào chữa cho các bị cáo đã thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung:

[2.1] Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Vũ Xuân T và Ngô Xuân K đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình, nhưng cho rằng các bị cáo chỉ vô tình giúp sức cho Phạm Ngọc Thắng thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Tuy nhiên, qua xem xét Biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai nhận tội của các bị cáo tại bản tự khai, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, có đủ cơ sở xác định:

Ngày 15/9/2017, Phạm Ngọc Thắng nhờ Vũ Xuân T gặp Hoàng Thị Quyên (người sống chung như vợ chồng với Thắng) nhận số tiền 100.000.000 đồng để gặp đối tượng Tuấn (không rõ lai lịch) mua 500 viên thuốc lắc với giá 165.000 đồng/viên rồi sau đó đem bán lại cho đối tượng Hải với giá 175.000 đồng/viên tại ngã tư đường Tây Thạnh, nhưng chưa kịp bán thì bị bắt quả tang, thu giữ của T 495 viên nén màu hồng khắc hình chim đại bàng, Kết quả giám định là ma túy ở thể rắn có khối lượng 173,8031 gram, loại MDMA.

Cùng với phương thức như trên, chiều ngày 16/9/2017, Phạm Ngọc Thắng nhờ Ngô Xuân K đi nhận ma túy từ đối tượng Tuấn sau đó bán lại cho người mua tại khu vực đường Chế Lan Viên, nhưng chưa kịp bán thì bị bắt quả tang, thu giữ của K 450 viên nén màu hồng khắc hình chim đại bàng, Kết quả giám định là ma túy ở thể rắn có khối lượng 154,79 gram loại MDMA.

Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã quy Kết các bị cáo Vũ Xuân T và Ngô Xuân K phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm e khoản 3 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009, là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.

[2.2] Hành vi phạm tội của các bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội. Các bị cáo nhận thức rõ ma túy, cụ thể là MDMA là chất gây nghiện, chất độc hại gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của con người và là nguyên nhân của nhiều loại tội phạm khác, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương nhưng các bị cáo vẫn thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy nhằm mục đích lợi nhuận. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo Vũ Xuân T 17 (mười bảy) năm tù và xử phạt bị cáo Ngô Xuân K 16 (mười sáu) năm tù là tương xứng với tính chất, mức độ tham gia phạm tội của từng bị cáo, đủ đảm bảo giáo dục, cải tạo riêng và răn đe, phòng ngừa chung.

[3] Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Vũ Xuân T và Ngô Xuân K kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, nhưng không cung cấp được tình tiết nào mới, nên Hội đồng xét xử thống nhất với quan điểm đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo T và bị cáo K; giữ nguyên quyết định về tội danh và hình phạt của bản án sơ thẩm đối với các bị cáo.

[4] Những ý kiến, quan điểm của các Luật sư bào chữa cho bị cáo Vũ Xuân T và bị cáo Ngô Xuân K tại phiên tòa phúc thẩm không phù hợp với phân tích và nhận định nêu trên, nên không được Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận.

[5] Các bị cáo Vũ Xuân T và Ngô Xuân K phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[6] Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Vũ Xuân T và Ngô Xuân K;

Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 248/2019/HS-ST ngày 10/7/2019 của Tòa án nhân dân Thành phố H:

Tuyên bố bị cáo Vũ Xuân T và Ngô Xuân K phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm e khoản 3 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009; Điều 17; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Xử phạt Vũ Xuân T 17 (mười bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 15/9/2017.

- Áp dụng điểm e khoản 3 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009; Điều 17; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt Ngô Xuân K 16 (mười sáu) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/9/2019.

- Án phí hình sự phúc thẩm: Các bị cáo Vũ Xuân T và Ngô Xuân K, mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo quy định pháp luật.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án là ngày 27 tháng 11 năm 2019./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 747/2019/HS-PT ngày 27/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:747/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về