Bản án 74/2021/HS-ST ngày 31/08/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN UYÊN, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 74/2021/HS-ST NGÀY 31/08/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 8 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Uyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 75/2021/TLST-HS ngày 16 tháng 8 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 74/2021/QĐXXST-HS ngày 18/8/2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Mò Văn T; tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; sinh năm 1991; Nơi sinh: huyện T, tỉnh Lai Châu; Nơi ĐKNKTT: Bản N, xã M, huyện T, tỉnh Lai Châu; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 0/12; Con ông Mò Văn P, sinh năm 1968 và con bà Lò Thị D, đã chết; Gia đình có 05 chị em, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình; Vợ: Lường Thị T, sinh năm 1992; con có 3 con, con lớn nhất sinh năm 2011, con nhỏ nhất sinh năm 2018; Tiền án; tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt quả tang, tạm giữ từ ngày 19/4/2021, ngày 28/4/2021 bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã M, huyện T, tỉnh Lai Châu cho đến nay bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Lường Thị T, sinh năm 1992, địa chỉ: Bản N, xã M, huyện T, tỉnh Lai Châu. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ 00 phút ngày 19/4/2021, Mò Văn T một mình điều khiển xe mô tô nhãn hiệu SIRIUS, loại xe nữ, màu sơn xanh - đen, biển kiểm soát 24K9- 7436, số máy: 013363, số khung: Y013363 của gia đình đi từ nhà xuống khu vực bản Noong Thăng, xã Phúc Than, huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu mục đích tìm mua Heroine để sử dụng. Khi đến bản Noong Thăng, T gặp một người phụ nữ dân tộc Mông không quen biết đang đứng ở ngoài đường. Tại đây, T hỏi mua Heroine của người phụ nữ nhưng người phụ nữ không có, sau đó người phụ nữ chủ động nói đưa tiền để người phụ nữ đi mua hộ Heroine cho T, T đồng ý. Lúc này, T đưa cho người phụ nữ số tiền 300.000 đồng, người phụ nữ cầm tiền rồi đi vào trong bản, cụ thể đi đâu thì T không biết. T đứng đợi khoảng 15 phút sau thì người phụ nữ quay lại đưa cho T 01 gói Heroine được gói ngoài bằng một mảnh nilon màu xanh, T cầm lấy Heroine, sau đó người phụ nữ đi đâu thì T không biết. Mua được Heroine, T lấy ra một ít sử dụng dưới hình thức hít, phần Heroine còn lại T gói lại như cũ sau đó gói thêm 01 mảnh giấy bạc màu trắng vàng bên ngoài rồi cầm trên tay phải và điều khiển xe đi về. Đến 08 giờ 20 phút cùng ngày, khi T về đến bản Bút Dưới, xã Trung Đồng, huyện Tân Uyên thì gặp lực lượng Công an huyện Tân Uyên đang làm nhiệm vụ. Lúc này do đang tàng trữ Heroine trên tay phải, sợ bị lực lượng Công an phát hiện nên T đã dừng xe lại rồi đi bộ về phía mương nước gần đó với mục đích vứt gói Heroine đi, nhưng khi T vừa thả gói Heroine từ trên tay phải xuống đất ngay tại vị trí T đứng thì bị lực lượng Công an phát hiện. Nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nên T đã T giác nhặt lên và giao nộp cho lực lượng Công an 01 gói Heroine được gói ngoài bằng 01 mảnh giấy bạc màu trắng vàng, bên trong được gói bằng 01 mảnh nilon màu xanh có khối lượng 0,43gam, mục đích để sử dụng.

Ngày 19/4/2021, Cơ quan CSĐT Công an huyện Tân Uyên đã tiến hành thành lập hội đồng mở niêm phong, xác định khối lượng, lấy mẫu vật giám định và niêm phong vật chứng. Tại bản kết luận giám định số 36/KL-TCGĐ ngày 20/4/2021 của Công an huyện Tân Uyên, kết luận: Vật chứng nghi là chất ma túy thu giữ của Mò Văn T có khối lượng là 0,43 gam (Không phẩy bốn mươi ba gam). Cùng ngày, Cơ quan CSĐT Công an huyện Tân Uyên đã trích 0,17 gam chất bột, màu trắng thu giữ của Mò Văn T để gửi giám định.

Tại bản kết luận giám định số 302/GĐ-KTHS ngày 22/4/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: Mẫu chất bột, màu trắng gửi giám định là ma túy, loại Heroine.

Bản cáo trạng số 63/CT-VKS-TU ngày 16/8/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Uyên đã truy tố bị cáo Mò Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về kết luận điều tra và bản cáo trạng nêu trên.

Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo từ 18 đến 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo và xử lý vật chứng theo quy định.

Bị cáo Mò Văn T thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng, không có ý kiến tranh luận đối với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Uyên.

Tại lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Uyên, Điều tra viên,Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Uyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình T, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội:

Xét lời khai nhận tội của bị cáo Mò Văn T tại phiên tòa là phù hợp với nội dung vụ án, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thu thập hợp pháp. Như vậy, có đủ cơ sở để xác định: Hồi 08 giờ 20 phút, ngày 19/4/2021, tại bản Bút Dưới, xã Trung Đồng, huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu, bị cáo Mò Văn T đã có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói Heroine có khối lượng 0,43 gam với mục đích để sử dụng thì bị Công an huyện Tân Uyên phát hiện bắt quả tang. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Như vậy, Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Uyên truy tố bị cáo với tội danh và khung hình phạt trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo có tính nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến việc quản lý của Nhà nước đối với các chất ma tuý, là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội khác, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật T trị an ở địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự nên bị cáo phải chịu trách nhiệm về hành vi cố ý tàng trữ trái phép 0,43gam Heroine. Cần phải có mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng với hành vi của bị cáo để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung trong xã hội.

[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; trình độ học vấn 0/12 (không biết chữ).

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng sâu, vùng xa, trình độ học vấn thấp nên nhận biết pháp luật có phần còn hạn chế nên bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Không có.

Trên cơ sở tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự xét thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian trên mức khởi điểm của khung hình phạt nên đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về mức hình phạt là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo nghề nghiệp làm ruộng, nguồn thu nhập thấp, bị cáo tàng trữ ma túy mục đích để sử dụng, không vụ lợi. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng của vụ án:

0,26 gam Heroine còn lại sau giám định, 01 mảnh nilon màu xanh, 01 mảnh giấy bạc màu trắng vàng .Xét thấy cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu SIRIUS, loại xe nữ, màu sơn xanh - đen, biển kiểm soát 24K9-7436, số máy: 013363, số khung: Y013363, xe cũ đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong. Quá trình điều tra xác định chiếc xe mô tô trên là tài sản hợp pháp của bị cáo Mò Văn T và vợ là chị Lường Thị T, Việc bị cáo T sử dụng chiếc xe mô tô trên của gia đình đi mua Heroine thì chị T và những người trong gia đình đều không biết. Hội đồng xét xử xét thấy cần trả chiếc xe trên cho chị Lường Thị T là phù hợp với quy định của pháp luật.

[6] Những vấn đề liên quan:

Về nguồn gốc số Heroine, bị cáo Mò Văn T khai nhờ một người phụ nữ dân tộc Mông không rõ nhân thân lai lịch tại bản Noong Thăng, xã Phúc Than, huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu mua hộ với số tiền 300.000 đồng. Quá trình điều tra không xác định được nên không có căn cứ để xử lý.

Quá trình điều tra xác định, việc bị cáo Mò Văn T lấy chiếc xe mô tô nhãn hiệu SIRIUS, loại xe nữ, màu sơn xanh - đen, biển kiểm soát 24K9-7436, số máy:

013363, số khung: Y013363 dùng làm phương tiện đi mua Heroine thì gia đình không ai biết nên không xử lý.

[7] Về án phí: Bị cáo bị kết án phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106; Điều 136; Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12- 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[1] Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Mò Văn T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

[2]Về hình phạt: Xử phạt bị cáo 18 (Mười tám) tháng tù, trừ 09 (Chín) ngày tạm giữ, còn lại 17 (Mười bảy) tháng 21 (Hai mươi mốt) ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào trại chấp hành hình phạt.

Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

[3] Về vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy một bì thư làm bằng phong bì của Công an huyện Tân Uyên bên trong đựng 0,26 gam Heroine, 01 mảnh nilon màu xanh, 01 mảnh giấy bạc màu trắng vàng.

Trả lại cho chị Lường Thị T, sinh năm 1992; địa chỉ bản Nà Pè, xã Mường Khoa, huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu một chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA - SIRIUS, loại xe nữ, màu sơn xanh - đen, biển kiểm soát 24K9-7436, số máy: 013363, số khung: Y013363, xe cũ đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong.

(Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng vào hồi 15 giờ 00 phút ngày 27/8/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Uyên với Chi Cục thi hành án dân sự huyện Tân Uyên).

[4] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[5] Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án lên Tòa án nhân dân cấp trên.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

129
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 74/2021/HS-ST ngày 31/08/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:74/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Uyên - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về