Bản án 74/2021/HS-ST ngày 16/06/2021 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VĨNH YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

 BẢN ÁN 74/2021/HS-ST NGÀY 16/06/2021 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 16 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 77/2021/TLST-HS ngày 28 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 80/2021/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Thanh T, sinh năm 1990 tại Vĩnh Phúc; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở thôn Đ, xã X, huyện L, tỉnh V; giới tính: Nam; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Ngọc Lvà bà Đỗ Thị L; có vợ là Bàn Mùi S và 01 con nhỏ sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 28/01/2021 đến 28/4/2021, tại ngoại ở địa phương (có mặt).

Bị hại: Anh Nguyễn Văn M, sinh năm 1977 ( đã chết);

Người đại diện hợp pháp của bị hại: Chị Đinh Thị M, sinh năm 1980 (có mặt); bà Hoàng Thị T, sinh năm 1956 (có mặt); cháu Nguyễn Thanh T1, sinh năm 2007 (có mặt); cháu Nguyễn Duy K, sinh năm 2005 (có mặt). Đều trú tại: Xóm G, xã Đ, thành phố V, tỉnh V. Người đại diện theo ủy quyền của bà Hoàng Thị T, người đại diện theo pháp luật của cháu Nguyễn Thanh T và Nguyễn Duy K là chị Nguyễn Thị M.

Người đại diện theo ủy quyền của chị M: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1980; Địa chỉ: Xóm C, xã Đ, thành phố V, tỉnh V. (vắng mặt) Người làm chứng: Chị Trần Thị T2 (vắng mặt); anh Nguyễn Văn H1 (vắng mặt); anh Nguyễn Đức C (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ ngày 25/11/2020, Nguyễn Thanh T điều khiển xe ô tô mang biển kiểm soát (BKS) 88A - 056.26 nhãn hiệu KIA-PICANTO đi trên đường L theo hướng ra đường Quốc lộ 2C đoạn qua xã Đ, thành phố V với vận tốc khoảng 60km/h. Đến gần điểm giao nhau đồng mức với đường dân sinh đi xóm G, xã Đ, Tùng không chú ý quan sát gờ giảm tốc và các biển cảnh báo “giao nhau với đường không ưu tiên W.207b”; “đường dành cho người đi bộ sang đường I.423b” và vạch kẻ đường dành cho người đi bộ dưới lòng đường nên đã không giảm tốc độ để đảm bảo an toàn mà tiếp tục điều khiển xe với vận tốc khoảng 60km/h ở làn đường giáp dải phân cách cứng. Đến khi còn cách lối mở khoảng 5 đến 10m, Tùng bất ngờ phát hiện phía trước có xe máy nhãn hiệu Honda Wave α, màu xanh đen, BKS 88F9 - 4435 do anh Nguyễn Văn M sinh năm 1977 ở xã Đ, thành phố V điều khiển rẽ qua lối mở dải phân cách cứng đi sang đường vào xóm G. Để tránh va chạm, Tùng đã đánh lái sang phải đồng thời đạp chân phanh nhưng do khoảng cách gần, xe đi với tốc độ cao nên ô tô của Tùng đã đâm vào xe máy của anh M, khiến anh M bị hất văng lên đập vào kính chắn gió của xe ô tô ngã xuống đường. Ngay sau đó, Tùng xuống xe nhờ người dân đưa anh M đi cấp cứu, còn mình đến trình báo cơ quan Công an để giải quyết vụ việc. Do chấn thương nặng nên đến khoảng 1 giờ 30 phút ngày 26/11/2020 anh M đã tử vong.

Kết quả khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm phương tiện, khám nghiệm tử thi và bản ảnh hiện trường đều phù hợp với các nội dung nêu trên.

Trong giai đoạn, điều tra Nguyễn Thanh T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại Kết luận giám định pháp y về tử thi số 152/TT ngày 27/11/2020, Trung tâm Pháp y tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: Trên cơ thể anh M có nhiều vết xây sát da, ít khối sưng nề ấn lõm. Chấn thương sọ não nặng: Vỡ lún xương sọ vùng thái dương đỉnh phải. Chấn thương cổ nặng: Gãy dời kín các đốt sống cổ số 3 và số 4. Nguyên nhân chết của anh Nguyễn Văn M: Sốc đa chấn thương không hồi phục.

Ngay sau khi tai nạn xảy ra, Cơ quan điều tra kiểm tra nồng độ cồn đối với Tùng cho kết quả: Nồng độ cồn trong hơi thở là 0,000 miligam/1 lít khí thở. Trưng cầu giám định cồn đối với mẫu máu của tử thi Nguyễn Văn Minh, cho kết quả: có nồng độ cồn 169,443mg/100ml máu.

Tại Kết luận giám định số 3081/KLGĐ ngày 05/12/2020, Phòng Kỹ thuật hình sự kết luận: Trong mẫu nước tiểu của Nguyễn Thanh T không có thành phần các chất ma túy thường gặp. Hoàn lại 0,00ml mẫu cùng toàn bộ bao gói.

Tại Kết luận giám định số 3079/KLGĐ ngày 05/12/2020, Phòng Kỹ thuật hình sự kết luận: Trong mẫu máu tử thi anh Nguyễn Văn M không có thành phần các chất ma túy thường gặp. Hoàn lại khoảng 2ml mẫu cùng toàn bộ bao gói.

Tại Kết luận giám định số 3173/KLGĐ ngày 12/12/2020, Phòng Kỹ thuật hình sự kết luận: Trong mẫu máu tử thi anh Nguyễn Văn M có nồng độ cồn 169,443mg/100ml mẫu. Hoàn lại khoảng 00ml mẫu cùng toàn bộ bao gói.

Ngày 11/12/2020, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận giám định dữ liệu điện tử trong thẻ nhớ thu trên xe ô tô, kết quả: Chụp được 07 ảnh diễn biến liên quan đến vụ tai nạn giao thông trong 01 tệp tin video, cụ thể: Ảnh 1: Tầm quan sát của camera từ trong phương tiện A ra đường. Phương tiện A đang di chuyển trên đường cho thấy trời quang đãng, không mưa đường được chiếu sáng bởi đèn đường và ánh sáng đèn ô tô đủ khả năng quan sát rõ phía trước; Ảnh 2: Xuất hiện người B điều khiển xe mô tô (trong khung tròn màu đỏ), Người B đang điều khiển xe mô tô di chuyển ngang qua đường, cắt ngang hướng di chuyển của phương tiện Ảnh 3, Ảnh 4: Phương tiện A và xe mô tô trước khi va chạm; Ảnh 5, 6: Phương tiện A và xe mô tô do người B điều khiển va chạm với nhau. Người B bị hất văng lên va chạm vào kính trước của phương tiện A, làm vỡ kính lái; Ảnh 7: Sau đó Người B bị hất xuống lề đường bên phải.

Ngày 21/5/2021, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố V, kết luận thiệt hại đối với xe ô tô BKS 88A-056.26 là 4.550.000đ, thiệt hại đối với xe máy BKS 88F9 - 4435 là 1.380.000đ.

Xác minh nguồn gốc xe ô tô BKS 88A - 056.26, cho kết quả: Đăng ký đứng tên chủ xe Ngô Thất T3, sinh năm 1982 ở xã D, huyện Tdg, tỉnh V, đăng ký lần đầu năm 2014. Tháng 11 năm 2019, anh Tùng bán xe cho anh Khổng Duy B, sinh năm 1984 ở phường L, thành phố V, tỉnh V, có làm hợp đồng mua bán nhưng không làm thủ tục sang tên đăng ký xe. Đến tháng 01 năm 2020, anh Biên bán lại cho Nguyễn Thanh T, hai bên có làm giấy tờ mua bán viết tay nhưng chưa làm thủ tục sang tên đăng ký xe. Đối với xe máy BKS: 88F9 - 4435, cho kết quả: Đăng ký đứng tên chủ xe Hoàng Thị L, sinh năm 1982 ở xã Đ, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc. Khoảng tháng 11/2015, Chị Liên bán cho anh M, hai bên làm giấy tờ mua bán viết tay, giao cho anh M cất giữ, hiện nay anh M đã chết nên chị M (vợ anh M) không tìm thấy giấy tờ để cung cấp cho cơ quan điều tra. Hai phương tiện nói trên không nằm trong danh mục xe tang vật của tội phạm.

Qua xác minh, xác định anh Nguyễn Văn M được cấp giấy phép lái xe mô tô hạng A1 ngày 05/9/2018 có giá trị không thời hạn. Nguyễn Thanh T được cấp giấy phép lái xe ô tô hạng B2 ngày 08/01/2020, có giá trị đến ngày 08/01/2030.

Vật chứng của vụ án đã thu giữ gồm: 01 xe mô tô BKS 88F9 - 4435, 01 xe ô tô BKS 88A - 056.26, 01 thẻ nhớ nhãn hiệu VIDVE loại 32Gb màu cam đen thu trong xe ô tô BKS 88A - 056.26; 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô BKS 88A - 056.26 mang tên Ngô Thất Tùng; 01 Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ biển đăng ký 88A-056.26, 01 Bảo hiểm trách nhiệm dân sự và 01 Giấy phép lái xe ô tô hạng B2 mang tên Nguyễn Thanh T.

Ngay sau khi anh M chết, Nguyễn Thanh T đã bồi thường gia đình bị hại 30.000.000đ để lo mai táng.

Tại Cáo trạng số 82/CT - VKSTPVY ngày 26/5/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố V truy tố Nguyễn Thanh T về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Ngày 14/6/2021, bị cáo T và gia đình bị hại đã thỏa thuận xong về bồi thường chi phí mai táng, viện phí, tổn thất tinh thần, cấp dưỡng nuôi các con của anh Nguyễn Văn M đến khi thành niên và thiệt hại của xe máy BKS 88F9 - 4435 với tổng số tiền là 170.000.000đ. Gia đình bị hại đã nhận tiền, không yêu cầu gì khác và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa, bị cáo T thành khẩn khai báo, thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và không yêu cầu gia đình bị hại bồi thường thiệt hại đối với xe ô tô; đại diện gia đình bị hại xác nhận đã được bồi thường xong, không yêu cầu Tòa án giải quyết, đồng thời xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố Nguyễn Thanh T về tội ‘‘Vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ’’ và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1, khoản 5 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, 2, 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm, áp dụng hình phạt bổ sung cấm bị cáo hành nghề lái xe thời hạn từ 01 năm đến 02 năm kể từ ngày bản án có hiệu lực, xử lý vật chứng và buộc bị cáo chịu án phí theo quy định pháp luật.

Bị cáo T, đại diện bị hại không tranh luận gì. Trong lời nói sau cùng bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội của bị cáo tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai người làm chứng về thời gian, địa điểm và hậu quả do tội phạm gây ra; cũng như phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, kết quả giám định tử thi, kết quả khám nghiệm phương tiện, cùng các vật chứng và tài liệu chứng cứ khác được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ căn cứ để kết luận:

Vào khoảng 22 giờ 30 phút ngày 25/11/2020, tại vị trí giao nhau đồng mức giữa đường L với lối mở đường dân sinh đi xóm G, thuộc địa phận xã Đ, thành phố V, tỉnh V, Nguyễn Thanh T điều khiển xe ô tô BKS 88A - 056.26 với tốc độ khoảng 60 km/h, không chú ý quan sát, không giảm tốc độ đảm bảo an toàn nơi đường giao nhau, có cảnh báo đường dành cho người đi bộ khiến xe ô tô của Tùng đâm trực diện xe máy BKS 88F9 - 4435 do anh Nguyễn Văn M điều khiển đang sang đường. Hậu quả, anh M bị thương nặng được đưa đi cấp cứu sau đó tử vong, ô tô do Tùng điều khiển và xe máy của anh M đều bị hư hỏng nặng.

Nguyễn Thanh T có giấy phép lái xe ô tô hạng B2, khi điều khiển xe không dùng rượu bia, chất kích thích nhưng không chấp hành quy định của Luật giao thông đường bộ, không chú ý quan sát, không làm chủ tốc độ theo quy định tại nơi giao nhau cùng mức, khu đông dân cư có đường dành cho người đi bộ sang đường làm anh Nguyễn Văn M tử vong đã vi phạm vào khoản 5 Điều 4; khoản 23 Điều 8; khoản 1 Điều 9; khoản 1, điểm b khoản 4 Điều 10; khoản 1 Điều 11; khoản 1 Điều 12; Điều 24 Luật giao thông đường bộ các quy định của Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia 41/2019/BGTVT của Bộ Giao thông vận tải ban hành theo Thông tư 54/2019/TT-BGTVT ngày 31/12/2019 và khoản 1, khoản 3, khoản 5 Điều 5 Thông tư số 31/2019/TT-BGTVT ngày 29/8/2019 của Bộ Giao thông vận tải quy định về tốc độ, khoảng cách của xe cơ giới, xe máy chuyên dùng tham gia giao thông đường bộ.

Hành vi điều khiển ô tô gây tai nạn làm chết người nêu trên của bị cáo T đã phạm vào tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017). có khung hình phạt tù từ 1 năm đến 5 năm.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp trật tự an toàn giao thông đường bộ và gây thiệt hại tính mạng, sức khoẻ, tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an và an toàn xã hội. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm đối với bị cáo nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Hành vi của anh Nguyễn Văn M, điều khiển xe máy khi trong máu có nồng độ cồn 169,443mg/100ml, khi sang đường không chú ý quan sát, không nhường phương tiện đi trên đường ưu tiên là vi phạm pháp luật nhưng anh M đã chết nên không xem xét trách nhiệm hình sự là có căn cứ.

[2] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Bị cáo phạm tội theo điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự, có mức cao nhất của khung hình phạt đến 5 năm tù, theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 9 Bộ luật Hình sự, tội phạm trong vụ án này trường hợp nghiêm trọng.

Trước khi phạm tội, bị cáo T là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Khi tham gia giao thông, bị cáo chủ quan, cẩu thả, không chú quan sát, không giảm tốc độ đảm bảo an toàn khi đi đến đoạn đường giao nhau đồng mức, có cảnh báo đường dành cho người đi bộ dẫn đến tai nạn giao thông với xe mô tô do anh Nguyễn Văn M điều khiển, làm anh M bị chấn thương nặng dẫn đến tử vong. Hậu quả nêu trên, bị hại cũng có lỗi khi điều khiển xe khi trong máu có nồng độ cồn, khi sang đường không chú ý quan sát để đảm bảo an toàn và không nhường đường cho phương tiện đi trên đường ưu tiên. Sau khi trình báo sự việc tại cơ quan điều tra, bị cáo T luôn thành khẩn khai báo, ăn năn hồi cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho gia đình bị hại và được gia đình bị hại làm đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì vậy bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét tính chất nghiêm trọng của tội phạm, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, lỗi của người bị hại thấy rằng: Trong vụ án này, hành vi phạm tội xảy ra do lỗi vô ý hỗn hợp; bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, ổn định, có hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 điều 51 Bộ luật Hình sự ngoài ra có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của gia đình bị hại. Mặt khác, điều kiện gia đình của bị cáo có khó khăn, đã ly thân vợ nên bị cáo là lao động chính trong gia đình. Vì vậy, có thể áp dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa cũng đủ để giáo dục cải tạo bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.

[3] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo khai nhận mua xe ô tô để hành nghề lái xe. Do vậy, cần phải cấm bị cáo hành nghề một thời gian theo quy định tại khoản 5 Điều 260 Bộ luật Hình sự.

[4] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra bị cáo, không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Vì vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[5] Về trách nhiệm dân sự của vụ án: Bị cáo và gia đình bị hại đã tự nguyện thỏa thuận và thực hiện xong bồi thường các khoản chi phí hợp lý về mai táng, cứu chữa người bị hại, các tổn thất tinh thần, cấp dưỡng cho các con của bị hại đến khi đủ 18 tuổi, thiệt hại về phương tiện với tổng số tiền 170.000.000đ. Không có yêu cầu giải quyết về bồi thường dân sự nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[6] Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 đĩa DVD được niêm phong trong bì thư có dấu của Phòng kỹ thuật hình sự và chữ ký giáp lai và 01 thẻ nhớ màu cam đen, nhãn hiệu VIDVIE loại 32Gb thu giữ trên xe ô tô BKS 88A - 056.26, sau khi trưng cầu giám định được cơ quan điều tra niêm phong lưu chuyển theo hồ sơ vụ án, cần tiếp tục lưu chuyển cùng hồ sơ vụ án theo quy định tại Điều 105 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Đối với các mẫu vật hoàn lại sau giám định cùng toàn bộ bao gói cần tiêu hủy theo quy định.

Đối với 01 xe ô tô nhãn hiệu KIA loại PICANTO mang BKS 88A - 056.26;

01 Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 010377 đứng tên chủ xe Ngô Thất Tùng;

01 Giấy chứng nhận kiểm định an toan kỹ thuật và bảo vệ mỗi trường số KC 9208095 biển đăng ký 88A - 056.26; 01 bảo hiểm trách nhiệm dân sự và 01 Giấy phép lái xe hạng B2 số 26010327518 mang tên Nguyễn Thanh T. Cơ quan điều tra xác định là tài sản hợp pháp của bị cáo T do đó cần trả lại cho bị cáo.

Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda loại Wave, BKS 88F9 - 4435 là tài sản hợp pháp của anh Nguyễn Văn M, do vậy cần trả lại cho gia đình bị hại.

[7] Về án phí: Cần buộc bị cáo Nguyễn Thanh T phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 260, điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, 2, 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt Nguyễn Thanh T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Giao bị cáo Nguyễn Thanh T cho Ủy ban nhân dân xã X, huyện L, tỉnh V giám sát giáo dục trong thời gian thử thách của án treo.

Trong thời gian thử thách của án treo, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành phạt tù của Bản án đã cho hưởng án treo.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 của Luật Thi hành án Hình sự.

Căn cứ khoản 5 Điều 260 của Bộ luật Hình sự, cấm bị cáo hành nghề lái xe ô tô 01 (một) năm tính từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật.

Căn cứ khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 0,00ml mẫu và toàn bộ bao gói hoàn lại sau giám định được niêm phong theo quy định.

Trả lại Nguyễn Thanh T 01 xe ô tô nhãn hiệu KIA loại PICANTO mang BKS 88A - 056.26; 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 010377 đứng tên Ngô Thất Tùng; 01 Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường số KC 9208095 biển đăng ký 88A - 056.26, 01 Bảo hiểm trách nhiệm dân sự và 01 Giấy phép lái xe hạng B2 số 26010327518 mang tên Nguyễn Thanh T.

Trả lại đại diện bị hại 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave mang BKS 88F9 – 4435.

(Vật chứng có đặc điểm như Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản lập ngày 15/6/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố V).

Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Buộc bị cáo Nguyễn Thanh T phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo, đại diện hợp pháp bị hại, có quyền kháng cáo Bản án để yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

127
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 74/2021/HS-ST ngày 16/06/2021 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

Số hiệu:74/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về