Bản án 74/2021/HSST ngày 06/07/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TC, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 74/2021/HSST NGÀY 06/07/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân huyện TC xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 72/2021/TLST-HS ngày 14 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 71/2021/QĐXXST- HS ngày 06 tháng 5 năm 2021, Quyết định hoãn phiên tòa số: 12/2021/HSST- QĐ, ngày 18 tháng 5 năm 2021, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 104/2021/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 6 năm 2021, Quyết định hoãn phiên tòa số: 18/2021/HSST-QĐ, ngày 15 tháng 6 năm 2021, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 131/2021/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo:

Mè Văn Q, tên gọi khác: Không; sinh năm 1990 tại huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: bản Lạn Bóng, xã Tông Lạnh, huyện TC, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Mè Văn T, sinh năm 1971 và bà Lù Thị L, sinh năm 1972; bị cáo có vợ là Tòng Thị Th, sinh năm 1989 và có 02 con, con lớn sinh năm 2010, con nhỏ sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 03 tháng 02 năm 2021 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 19 giờ 00 phút ngày 03/02/2021, Tổ công tác Đội Hình sự Công an huyện TC, tỉnh Sơn La làm nhiệm vụ tại khu vực bản Lạnh, xã Tông Lạnh, huyện TC, phát hiện bắt quả tang Mè Văn Q có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy.

Vật chứng T giữ: 01 (một) gói nilon màu hồng bên trong có chứa bột cục màu trắng nghi là Heroine (theo Mè Văn Q khai là Heroine).

Hồi 23 giờ 00 phút ngày 03/02/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tận Châu đã tiến hành bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng và lấy mẫu giám định, kết quả: số bột cục màu trắng trong gói nilon màu hồng có khối lượng 0,27 gam. Trích toàn bộ 0,27 gam ký hiệu Q1 gửi giám định.

Kết luận giám định số: 466/KL ngày 04/02/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu Q1 là ma túy; loại Heroine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,27 gam. Tổng khối lượng ma túy T giữ 0,27 gam. Hoàn lại đối tượng giám định: chất bột màu trắng Tộc mẫu gửi giám định ký hiệu Q1, không sử dụng đến trong quá trình giám định, có khối lượng là 0,15 gam.

Quá trình điều tra Mè Văn Q đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 18 giờ 50 phút ngày 03/02/2021, Mè Văn Q đi bộ một mình từ nhà ở bản Lạn Bóng, xã Tông Lạnh, huyện Tận Châu, tỉnh Sơn La ra bản Lạnh, xã Tông Lạnh, huyện Tận Châu, tỉnh Sơn La mục đích tìm mua ma túy để sử dụng. Khi Quý đến khu vực bản Lạnh, xã Tông Lạnh, huyện Tận Châu, Quý gặp và hỏi mua được của một nam thanh niên dân tộc Thái (Quý không biết tên, địa chỉ cụ thể ở đâu) một gói ma túy gói bằng nilon màu hồng với số tiền 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng). Sau khi mua được ma túy, Quý cầm bên tay trái và đi bộ về nhà để tìm nơi sử dụng ma túy. Khi Quý đi được khoảng 30m thì bị tổ công tác Công an huyện Tận Châu phát hiện, bắt quả tang và T giữ cùng vật chứng.

Tại Cáo trạng số: 52/CT- VKSTC ngày 14 tháng 4 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TC đã truy tố bị cáo Mè Văn Q về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay, bị cáo Mè Văn Q đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân huyện TC đã truy tố và thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân huyện TC giữ quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Mè Văn Q phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Mè Văn Q từ 18 (mười tám) tháng đến 22 ( hai mươi hai) tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ Luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch T tiêu hủy: 0,15 gam Heroine, 01 mảnh nilon màu hồng, 01 vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu, 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu giám định đã bóc mở.

Buộc bị cáo Mè Văn Q phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Mè Văn Q thừa nhận hành vi phạm tội và không có ý kiến tranh luận gì với vị đại diện Viện kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện TC, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện TC, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, thực hiện đúng thủ tục tố tụng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Ngày 03/02/2021 bị cáo Mè Văn Q đã có hành vi cất giữ trái phép 0,27 gam chất ma túy, loại chất Heroine trong người với mục đích để sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang tại bản Lạnh, xã Tông Lạnh, huyện Tận Châu, tỉnh Sơn La.

Tại phiên tòa bị cáo giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra, không bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án, bị cáo hoàn toàn nhất trí với hành vi phạm tội như quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra phù hợp với kết quả điều tra, phù hợp với: Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 19 giờ 30 phút ngày 03/02/2021; Biên bản niêm phong vật chứng; Biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng, lấy mẫu gửi giám định và niêm phong lại; Biên bản mở niêm phong và giao nhận đối tượng giám định; Kết luận giám định số 466/KL ngày 04/02/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La; lời khai của người chứng kiến.

[3] Từ các căn cứ trên có đủ cơ sở kết luận hành vi cất giữ trái phép 0,27 gam chất ma túy, loại chất Heroine trong người với mục đích để sử dụng của bị cáo Mè Văn Q đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo Tộc trường hợp nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự an ninh xã hội tại địa phương. Do đó cần có mức hình phạt nghiêm khắc nhằm răn đe giáo dục đối với bị cáo, trên cơ sở xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân của bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Về nhân thân: Bị cáo không có tiền án, tiền sự.

[5] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về nguồn gốc số ma túy bị T giữ: Bị cáo Mè Văn Q khai mua của nam thanh niên dân tộc Thái không biết họ tên, tuổi, địa chỉ tại khu vực bản Lạnh, xã Tông Lạnh, huyện Tận Châu, tỉnh Sơn La vào ngày 03/02/2021. Ngoài lời khai của bị cáo không còn chứng cứ nào khác chứng minh. Do đó, buộc bị cáo Mè Văn Q phải chịu trách nhiệm về toàn bộ số ma túy bị T giữ.

[7] Vật chứng vụ án: Đối với 0,15 gam Heroine còn lại sau khi lấy mẫu gửi giám định là chất ma túy, Tộc loại Nhà nước cấm lưu hành, cần tịch T tiêu hủy cùng 01 mảnh nilon màu hồng, 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu gửi giám định đã bóc mở là công cụ phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội và không còn giá trị sử dụng theo quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[8] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức T, miễn, giảm, T, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Mè Văn Q phải chịu toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt 

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố bị cáo Mè Văn Q phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Mè Văn Q 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 03/02/2021).

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ Luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch T tiêu hủy: một phong bì niêm phong có viền màu xanh đỏ, mặt trước ghi: Vật chứng nhập kho vụ Mè Văn Q- Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 03/02/2021. Mặt sau phong bì, dán giấy niêm phong của Công an tỉnh Sơn La số: 024927 đè lên các mép dán của phong bì, trên giấy niêm phong có đầy đủ chữ ký, họ tên của các thành phần tham gia niêm phong, người bị bắt và 02 hình dấu đỏ của cơ quan CSĐT Công an huyện TC. Bên trong có: 01 mảnh nilon màu hồng + 01 vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu. Một phong bì niêm phong, mặt trước ghi: Vật chứng vụ Mè Văn Q- Tàng trữ trái phép chất ma túy, xảy ra ngày 03/02/2021. Gồm có: phong bì niêm phong mẫu gửi giám định đã bóc mở + chất bột màu trắng Tộc mẫu gửi giám định ký hiệu Q1, không sử dụng đến trong quá trình giám định, có khối lượng 0,15 gam. Mặt sau dán giấy niêm phong Công an tỉnh Sơn La số: 046504, trên giấy niêm phong có 3 dòng chữ kèm theo 03 dòng họ tên và 02 hình dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 15/4/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện TC và Chi cục Thi hành án dân sự huyện TC).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức T, miễn, giảm, T, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Buộc bị cáo Mè Văn Q phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo Mè Văn Q được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 74/2021/HSST ngày 06/07/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:74/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về