Bản án 74/2020/HS-ST ngày 30/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T G, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 74/2020/HS-ST NGÀY 30/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 9 năm 2020, tại phòng xét xử Tòa án nhân dân huyện TG, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 72/2020/TLST - HS ngày 09 tháng 9 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 75/2020/QĐXXST - HS ngày 16 tháng 9 năm 2020 đối với các bị cáo:

1.Họ tên: Đàm Văn H; Tên gọi khác: Không; sinh năm 1984; Tại: Thị trấn TG, huyện TG, tỉnh Điện Biên. Nơi cư trú: Khối 20/7, thị trấn TG, huyện TG, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 9; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Đàm Văn T (đã chết) và bà Nguyễn Thị Th, sinh năm 1945; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án: Có 03 tiền án,

Tiền án 1: Ngày 20/10/2004 bị Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên xử phạt 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, ngày 15/11/2004 ra trại về địa phương sinh sống, bị cáo chưa được xóa án tích.

Tiền án 2: Ngày 16/01/2006 bị Tòa án nhân dân huyện TG, tỉnh Điện Biên xử phạt 18 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, ngày 20/3/2007 ra trại trở về địa phương sinh sống nhưng chưa chấp hành xong phần án phí và trách nhiệm dân sự.

Tiền án 3: Ngày 20/3/2012 bị Tòa án nhân dân huyện TC, tỉnh Tây Ninh xử phạt 08 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, ngày 07/02/2018 chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương sinh sống, đến nay chưa được xóa án tích”;

Tiền sự: Không; Nhân thân: Chưa bị cơ quan nhà nước nào xử phạt vi phạm hành chính; Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 16/6/2020 đến ngày 19/6/2020 và bị tạm giam từ ngày 19/6/2020 cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an huyện TG. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Họ tên: H1 Tùng L; tên gọi khác: Không; sinh năm 1987; Tại: Thị trấn TG, huyện TG, tỉnh Điện Biên. Nơi cư trú: Khối 20/7, thị trấn TG, huyện TG, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: H1 Văn S, sinh năm 1958 và bà Phạm Thị H, sinh năm 1963; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Chưa bị Tòa án nào kết án và chưa bị cơ quan nhà nước nào xử phạt vi phạm hành chính; Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 16/6/2020 đến ngày 19/6/2020 và bị tạm giam từ ngày 19/6/2020 đến nay tại Nhà tạm giữ Công an huyện TG. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ 00 ngày 16/6/2020 Đàm Văn H đang đứng ở khu vực bãi đất trống thuộc khối 20/7 thị trấn TG, huyện TG thì gặp H1 Tùng L trú cùng khối đi uống Methadone về, do bản thân nghiện ma túy và biết L cũng sử dụng ma túy nên H đã nhờ L đi mua giúp H 250.000 đồng ma túy về để cùng nhau sử dụng. L đồng ý và nhận lấy tiền 250.000 đồng H đưa rồi điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Wave RSX màu đen đỏ, biển kiểm soát 27Z1-160.83 đi về hướng xã CS, huyện TG để tìm mua Heroine, còn H đi đến khối Đoàn Kết, thị trấn TG để chờ. Khi L đi đến khu vực bản TC, xã CS thì gặp một người phụ nữ không quen biết. Qua trao đổi L đã mua được của người phụ nữ này 01 gói Heroine được gói bằng nilon màu trắng với giá 250.000 đồng. Sau khi mua được Heroine L cầm gói Heroine ở tay rồi điều khiển xe máy đi về, khi về đến khu vực khối ĐK, thị trấn TG thì gặp H ở cổng nhà của Nguyễn Hồng H1, sinh năm 1979 trú tại khối ĐK, thị trấn TG. Khi gặp H, L đưa cho H gói Heroine vừa mua được, H nhận gói Heroine và bảo L đi vào nhà H1 để cùng nhau sử dụng. Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 16/6/2020 khi H và L đi vào nhà H1 ngồi xuống cạnh cửa sổ để chuẩn bị sử dụng Heroine thì bị tổ công tác Công an thị trấn TG phát hiện, do hoảng sợ nên H đã thả gói Heroine qua khe cửa sổ nhà Nguyễn Hồng H1, tổ công tác yêu cầu H và L có ma túy thì mang ra giao nộp, H đã tự giác đi ra nhặt gói Heroine mà H vừa thả qua khe cửa sổ mang ra giao nộp cho tổ công tác. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ của H và L 01 gói được gói bằng nilon màu trắng nghi Heroine, H và L khai nhận đó là Heroine của H và L mua về cùng nhau sử dụng. Ngoài ra tổ công tác còn tạm giữ của H số tiền 2.060.000đ; tạm giữ của L 01 chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA Wave RSX màu sơn đen đỏ, biển kiểm soát 27Z1 – 160.83 và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA X1 màu đen, cùng số tiền 350.000đ. Sau đó Đàm Văn H và Hoàng Tùng L được áp giải về cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện TG để điều tra, làm rõ.

Tại biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng ngày 16/6/2020 đã xác định vật chứng thu giữ của Đàm Văn H và Hoàng Tùng L: Số chất chất bột mầu trắng nghi Heroine có trong gói nilon màu trắng có khối lượng 0,29 gam, trích 0,05 gam làm mẫu vật gửi giám định, vật chứng còn lại có khối lượng 0,24 gam.

Tại bản kết luận giám định số: 626/GĐ - PC09 ngày 04/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của Đàm Văn H và Hoàng Tùng L gửi giám định là chất ma túy: Loại Heroine (Heroine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 9, Mục IA, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ – CP ngày 15/5/2018).

Tại phiên tòa các bị cáo Đàm Văn H, Hoàng Tùng L một lần nữa đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu ở trên.

Tại bản Cáo trạng số: 74/CT-VKS-TG, ngày 08/9/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TG, tỉnh Điện Biên đã truy tố các bị cáo Đàm Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự và H1 Tùng L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa trong phần tranh luận đại diện VKSND huyện TG, tỉnh Điện Biên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Hoàng Tùng L từ 15 tháng đến 18 tháng tù; Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Đàm Văn H từ 05 năm 06 tháng đến 06 năm tù;

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo; Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 0,24 gam Heroine, Trả lại cho bị cáo H số tiền 2.060.000đ; Trả lại cho bị cáo L 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA X1 màu đen và số tiền 350.000đ. Mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST.

Các bị cáo không có ý kiến gì tự bào chữa cho mình và không có ý kiến tranh luận gì với Đại diện Viện kiểm sát về bản luận tội.

Lời nói sau cùng của các bị cáo xin được giảm án, ngoài ra các bị cáo không có ý kiến gì khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi của các bị cáo: Khoảng 09 giờ 30, ngày 16/6/2020, tại nhà của Nguyễn Hồng H1, sinh năm 1979, trú tại Khối Đoàn Kết, thị trấn TG, huyện TG, tỉnh Điện Biên Đàm Văn H và Hoàng Tùng L bị bắt quả tang khi đang tàng trữ trái phép 0,29 gam Heroine mục đích để sử dụng. Đàm Văn H và Hoàng Tùng L khai nhận 0,29 gam Heroine đó là của H và L, do H đưa tiền cho L đi mua về để H và L cùng sử dụng.

Mục đích thực hiện hành vi phạm tội của các bị cáo nhằm thỏa mãn nhu cầu sử dụng ma túy. Hành vi của các bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản mở niêm phong xác định khối lượng và lấy mẫu giám định, Kết luận giám định, Kết luận điều tra, các bản cung có trong hồ sơ vụ án cũng như Cáo trạng đã truy tố, các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, lời khai của người chứng kiến, lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa. Các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự chung đối với khối lượng 0,29 gam Heroine đã bị thu giữ.

Bị cáo Hoàng Tùng L không có tiền án tiền sự thì với hành vi và khối lượng Heroine bị thu giữ thì bị cáo L đã phạm vào tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Bị cáo Đàm Văn H bản thân có 03 tiền án chưa được xóa án tích. Tại bản án số 23/2012/HSST ngày 20/3/2012 của Tòa án nhân dân huyện TC, tỉnh Tây Ninh đã xử phạt bị cáo 08 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Trong bản án này bị cáo Đàm Văn H đã bị áp dụng tình tiết tăng nặng là “tái phạm”. Ngày 07/02/2018 chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương sinh sống, đến nay chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, nên với hành vi và khối lượng Heroine thu giữ trong lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm là tình tiết định khung hình phạt cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” được quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Cáo trạng truy tố các bị cáo là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật Các bị cáo đều là người có đủ năng lực để chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội của mình. Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, bị cáo H là người rủ rê bị cáo L đi mua ma túy, trực tiếp dùng tiền đưa cho bị cáo L mua ma túy để cùng nhau sử dụng, bị cáo L là đồng phạm với vai trò là người trực tiếp dùng phương tiện đi mua, thực hành tích cực hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Hội đồng xét xử sẽ căn cứ Điều 58 Bộ luật hình sự để quyết định hình phạt đối với từng bị cáo.

[2]. Về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội thì hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy. Hành vi của các bị cáo còn tiếp tay cho những kẻ chuyên buôn bán các chất ma túy tồn tại và phát triển, là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội trên địa bàn huyện TG nói riêng và tỉnh Điện Biên nói chung. Tội phạm mà bị cáo L vi phạm là tội phạm nghiêm trọng, tôị phạm mà bị cáo H vi phạm là tội phạm rất nghiêm trọng, vì vậy hành vi của các bị cáo cần phải bị xử lý nghiêm minh trước pháp luật.

[3]. Về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[4]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên đều được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo Đàm Văn H có bố đẻ là ông Đàm Văn T được Chủ tịch nước tặng Huân chương kháng chiến hạng ba và có mẹ đẻ là bà Nguyễn Thị Thảo được Chủ tịch nước tặng Huy chương kháng chiến hạng nhì nên bị cáo H được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5]. Về nhân thân: Các bị cáo từ nhỏ sinh ra và lớn lên tại thị trấn TG, huyện TG, tỉnh Điện Biên. Các bị cáo đều nghiện ma túy từ lâu, bị cáo H nghiện ma túy từ năm 2007 và đã ba lần bị kết án, còn bị cáo L lần đầu phạm tội nhưng bản thấn nghiện ma túy từ năm 2010. Hội đồng xét xử nhận thấy các bị cáo tuổi đời còn trẻ, nhưng các bị cáo không chịu lao động, rèn luyện bản thân để trở thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội mà lại sử dụng ma túy, việc các bị cáo cùng nhau đi mua ma túy về cất giấu nhằm mục đích cùng nhau sử dụng đã thể hiện sự công khai coi thường pháp luật của các bị cáo. Với hành vi của các bị cáo cần áp dụng hình phạt tù để đảm bảo tính nghiêm minh, răn đe và giáo dục các bị cáo, đồng thời để các bị cáo có điều kiện cai nghiện ma túy.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính các bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản theo quy định tại Khoản 5 Điều 249/BLHS nhưng các bị cáo là người nghiện ma túy, không có thu nhập ổn định, gia đình khó khăn nên không có khả năng thi hành, do vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[7]. Về án phí: Các bị cáo mỗi người phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVHQ 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[8]. Biện pháp tư pháp và việc xử lý vật chứng:

- 0,29 gam Heroine, đã trích 0,05 gam làm mẫu vật gửi giám định, còn lại 0,24 gam. Vật chứng còn lại 0,24 gam Heroine là vật thuộc loại nhà nước cấm tàng trữ cần tịch thu tiêu hủy theo điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- 01 xe máy HONDA WAVE RSX, màu đen đỏ, biển kiểm soát 27Z1 – 160.83, xe đã cũ, mang tên H1 Văn S (bố đẻ bị cáo H1 Tùng L), ông Sơn không biết việc bị cáo L đã dùng chiếc xe này làm phương tiện để đi mua bán ma túy, ông Sơn đã có đơn xin lại tài sản. Ngày 02/9/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện TG đã ra Quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại chiếc xe trên cho chủ sở hữu là ông H1 Văn S là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

- 01 Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA X1 màu đen, đã cũ thu giữ là của bị cáo H1 Tùng L, bị cáo mang điện thoại sử dụng để liên lạc với gia đình, không sử dụng để trao đổi mua bán ma túy nên cần trả lại cho bị cáo theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Số tiền 2.410.000đ tiền ngân hàng Nhà nước Việt Nam (Trong đó: 2.060.000đ thu giữ của bị cáo Đàm Văn H, còn 350.000đ thu giữ của bị cáo Hoàng Tùng L) Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện TG đã chuyển vào tài khoản của Chi cục Thi hành án dân sự huyện TG. Đây là những số tiền do các bị cáo khai đi làm tích góp được không liên quan đến việc mua bán ma túy nên cần trả lại cho các bị cáo theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[9]. Các vấn đề khác:

- Đối với người phụ nữ mà bị cáo Hoàng Tùng L khai đã bán ma túy cho L ngày 16/6/2020 do L không biết tên tuổi địa chỉ nên Cơ quan CSĐT Công an huyện TG không có căn cứ để xác minh làm rõ, vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

- Đối với Nguyễn Hồng H1, sinh năm 1979, trú tại khối ĐK, thị trấn TG, huyện TG do H1 không biết việc mục đích các bị cáo vào nhà để sử dụng ma túy, H1 cũng không biết các bị cáo cất giấu ma túy nên Cơ quan CSĐT Công an huyện TG không đặt vấn đề xem xét trách nhiệm hình sự đối với H1.

[10]. Đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện TG, tỉnh Điện Biên về hình phạt, tội danh, án phí và vật chứng là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[11]. Về hành vi và các Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện TG, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện TG, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc có khiếu nại gì về hành vi, Quyết định của các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của các Cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên xử:

1. Về tội danh: Các bị cáo Đàm Văn H và H1 Tùng L đều phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy

2. Về hình phạt:

- Căn cứ vào Điều 38, Điều 58; điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo H1 Tùng L 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ là ngày 16/6/2020.

- Căn cứ vào Điều 38, Điều 58; điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Đàm Văn H 05 (Năm) năm 06 (Sáu) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ là ngày 16/6/2020.

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVHQ 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Đàm Văn H và H1 Tùng L mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

4. Biện pháp tư pháp và việc xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 0,24 gam Heroine là vật chứng còn lại của vụ án (Vật chứng còn lại đựng trong 01 phong bì màu trắng, các mép đều được dán kín, bên trong có chứa 0,24 gam Heroine đựng trong một túi nilon màu trắng gắn kín lại).

- Trả lại cho bị cáo H1 Tùng L số tiền 350.000đ (Ba trăm năm mươi nghìn đồng) tiền ngân hàng Nhà nước Việt Nam và 01 (Một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA X1 màu đen, đã cũ.

- Trả lại cho bị cáo Đàm Văn H số tiền 2.060.000đ (Hai triệu không trăm sáu mươi nghìn đồng) tiền ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

(Toàn bộ vật chứng của vụ án đã được cơ quan Điều tra Công an huyện TG, tỉnh Điện Biên chuyển giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện TG, tỉnh Điện Biên theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 09/9/2020).

- Chấp nhận biên bản trao trả tài sản ngày 02/9/2020 của Công an huyện TG cho chủ sở hữu tài sản là ông Ho Văn Sơn.

5. Quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, 332 và 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (30/9/2020).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 74/2020/HS-ST ngày 30/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:74/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuần Giáo - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về