Bản án 74/2020/HS-ST ngày 28/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 74/2020/HS-ST NGÀY 28/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 28 tháng 05 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 60/2020/TLST-HS ngày 17 tháng 04 năm 2020 theo Quyết định đưa ra xét xử số 66/2020/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 05 năm 2020, đối với bị cáo:

Hà Văn H, sinh năm 1995; đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Thôn B, xã D, huyện V, tỉnh T; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Tày; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 11/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; họ tên cha: Hà Văn P; họ tên mẹ: Hoàng Thị C; gia đình có 03 anh chị em, bị cáo là con thứ ba; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Bản án số 15/2012/HS-ST ngày 07/8/2012 của Tòa án nhân dân huyện Võ Nhai, Thái Nguyên xử phạt Hà Văn H 09 tháng tù về tội “Đánh bạc” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng; Bản án số 15/2015/HS-ST ngày 01/06/2015 của Tòa án nhân dân huyện Võ Nhai, Thái Nguyên xử phạt Hà Văn H 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 28/08/2016 chấp hành xong hình phạt tù. Theo Phiếu lý lịch tư pháp số 2362/STP-LLTP ngày 03/6/2019 của Sở Tư pháp tỉnh Thái Nguyên cung cấp tình trạng án tích của Hà Văn H: Không có án tích.

Bị cáo bị bắt quả tang, tạm giữ từ ngày 29/12/2019 đến ngày 07/01/2020 chuyển tạm giam. Hiện đang bị áp dụng biện pháp tạm giam tại Trại tạm giam số 2, Công an thành phố Hà Nội, có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Văn K, sinh năm 1994; đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn N, xã P, huyện V, tỉnh T, có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo là: Ông Lê Quang Đạo – Trợ giúp viên pháp lý, Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước thành phố Hà Nội, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 14 giờ 30 phút ngày 29/12/2019, tại đoạn đường ngã tư Trâu Quỳ thuộc thị trấn Trâu Quỳ, Gia Lâm, Hà Nội, tổ công tác Y20/141 - Công an thành phố Hà Nội phối hợp cùng Công an thị trấn Trâu Quỳ, Công an huyện Gia Lâm phát hiện 02 đối tượng Nguyễn Văn K, sinh năm 1994; ĐKHKTT: Phương Giao, Võ Nhai, Thái Nguyên điều khiển xe máy BKS 12F4-3761, phía sau chở Hà Văn H, có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Quá trình kiểm tra phát hiện, bắt quả tang Hà Văn H có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Về vật chứng thu giữ, gồm:

Thu giữ của Hà Văn H:

- 01 gói giấy bạc màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng:

- 01 chiếc điện thoại Wiko màu đen, màn hình cảm ứng, lắp sim liên lạc, máy cũ đã qua sử dụng:

- 01 ví màu nâu, cũ đã qua sử dụng:

- Số tiền 1.330.000đ (Một triệu ba trăm ba mươi nghìn đồng).

Thu giữ của Nguyễn Văn K: 01 xe máy kiểu dáng Dream II, màu nâu BKS 12F4-3761.

Tại Kết luận giám định số 160/KLGĐ-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội ngày 06/01/2020 kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy bạc màu trắng là ma túy loại Heroine, khối lượng 0,124 gam.

Tại cơ quan điều tra, Hà Văn H khai nhận: Bản thân H là đối tượng nghiện ma túy. Khoảng 10 giờ ngày 29/12/2019 khi đang ở khu vực Đình Trám, Bắc Giang, H gọi điện thoại nhờ Nguyễn Văn K đến đón H đi Như Quỳnh, Văn Lâm, Hưng Yên gặp mẹ của H, K đồng ý K điều khiển xe máy BKS: 12F4-3761 chở H từ Đình Trám, Bắc Giang đi đến Như Quỳnh, Văn Lâm, Hưng Yên. Khi đến nơi, K ngồi đợi ở quán nước ven đường, H mượn xe máy của K đi vào gặp mẹ là bà Hoàng Thị C, sinh năm 1967; chỗ ở: Minh Khai, Như Quỳnh, Văn Lâm xin tiền để sinh hoạt cá nhân. Sau đó, H ra khu vực ngã tư Như Quỳnh, Văn Lâm mua 200.000 đồng ma túy của một người đàn ông không rõ nhân thân được 02 gói ma túy Heroine, H cất giấu ma túy vừa mua được vào túi áo khoác ngoài bên trái H đang mặc, sau đó Hoà mua xi lanh, kim tiêm và lấy ra 01 gói ma tuý rủ K sử dụng ma túy, K đồng ý. H và K tìm chỗ vắng sử dụng gói ma túy do Hoà lấy ra, còn một gói H để trong túi áo không nói cho K biết. Khi đi đến ngã tư Trâu Quỳ, Gia Lâm, Hà Nội, H và K bị lực lượng Công an kiểm tra, phát hiện bắt quả tang H cùng vật chứng nêu trên.

Đối với người bán ma túy cho Hà Văn H do không xác định được nhân thân, nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý.

Đối với bà Hoàng Thị C (mẹ của bị cáo H), quá trình điều tra xác định bà Cai không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo H.

Đối với Nguyễn Văn K, quá trình điều tra xác định K không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo H. Căn cứ kết quả xét nghiệm và lời khai xác định K có sử dụng ma túy cùng bị cáo H. Xét thấy hành vi sử dụng ma túy của K là vi phạm, Công an huyện Gia Lâm đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với K về hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý.

Đối với 01 xe máy kiểu dáng Dream II, màu nâu BKS 12F4-3761, số khung: 01520322, số máy: 01629322 thu giữ của Nguyễn Văn K. K khai đã mua chiếc xe máy trên cùng đăng ký xe tên Vi Văn Thao của một người không rõ nhân thân với giá 2.500.000 đồng ở Lạng Sơn, không có giấy tờ mua bán xe. Quá trình điều tra xác minh do không triệu tập được Nguyễn Văn K nên chưa làm rõ nguồn gốc xe máy trên, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện Gia Lâm ra quyết định xử lý vật chứng, tách chiếc xe máy trên cùng các tài liệu liên quan để điều tra, xác minh xử lý sau.

Đối với số tiền 1.330.000 đồng và 01 ví màu nâu thu giữ của bị cáo H không liên quan đến hành vi phạm tội.

Tại bản Cáo trạng số 62/CT-VKSGL ngày 17 tháng 04 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm truy tố bị cáo Hà Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan điều tra và Cáo trạng đã truy tố. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Văn K trình bầy:

Anh không biết và không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo H. Anh xác định có sử dụng ma túy cùng bị cáo H. Đối với 01 xe máy kiểu dáng Dream II, màu nâu BKS 12F4-3761, số khung: 01520322, số máy: 01629322 của anh bị thu giữ, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện Gia Lâm ra quyết định xử lý vật chứng, tách chiếc xe máy trên cùng các tài liệu liên quan để điều tra, xác minh xử lý sau anh nhất trí và không có ý kiến gì khác.

Đại diện Viện kiểm sát nhân huyện Gia Lâm tham gia phiên tòa luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố theo Cáo trạng; sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Hà Văn H từ 16 tháng đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 29/12/2019; không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu và tiêu huỷ số ma túy thu giữ của bị cáo; hoàn trả bị cáo Hà Văn H: 01 chiếc điện thoại di động màn hình cảm ứng màu đen, vỏ điện thoại có chữ Wiko, đã qua sử dụng; 01 ví màu nâu, cũ đã qua sử dụng; số tiền 1.330.000 đồng.

Người bào chữa cho bị cáo có quan điểm như sau: Nhất trí về tội danh và điều luật áp dụng đối với hành vi phạm tội của bị cáo theo Cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố. Bị cáo là người dân tộc thiểu số sống trong vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn nên nhận thức pháp luật còn hạn chế. Tại các cơ quan tiến hành tố tụng, bị cáo thành khẩn khai báo, nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, có thái độ ăn năn hối cải. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Sau khi nghe Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội, người bào chữa, bị cáo không có tranh luận gì. Trong lời nói sau cùng, bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lâm và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân huyện Gia Lâm và Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội và tội danh:

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, lời khai của người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, có đủ cơ sở kết luận:

Hồi 14 giờ 30 phút ngày 29/12/2019, tại ngã tư thị trấn Trâu Quỳ, Gia Lâm, Hà Nội, bị cáo Hà Văn H đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy loại Heroine, khối lượng 0,124 gam để sử dụng thì bị cơ quan Công an bắt quả tang cùng vật chứng. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý Nhà nước đối với các chất ma tuý. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm truy tố bị cáo theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về hình phạt áp dụng đối với bị cáo:

[3.1] Về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm chế độ độc quyền quản lý Nhà nước đối với các chất ma tuý, gây mất trật tự trị an xã hội. Heroine là các chất ma tuý rất độc hại, tàn phá và huỷ hoại sức khoẻ con người, là một trong những nguyên nhân chính phát sinh ra các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác trong đời sống xã hội. Trong những năm qua, tội phạm về ma tuý trên địa bàn thành phố Hà Nội diễn biến rất phức tạp, Nhà nước, các cấp chính quyền và Đoàn thể rất quan tâm và nỗ lực tuyên truyền, giáo dục về tác hại của ma tuý, kêu gọi toàn dân tích cực tham gia phòng chống tệ nạn về ma tuý và tội phạm may tuý. Bị cáo nhận thức được tác hại và hậu quả do ma tuý gây ra nhưng không tích cực phòng chống mà còn tàng trữ để sử dụng nên cần thiết phải xử lý nghiêm minh để giáo dục, cải tạo đối với bị cáo và phòng ngừa chung; góp phần đấu tranh phòng chống tệ nạn và các tội phạm về ma tuý trong đời sống xã hội.

[3.2] Về nhân thân bị cáo: Bị cáo là người nghiện ma túy. Bản án số 15/2012/HS-ST ngày 07/8/2012 của Tòa án nhân dân huyện Võ Nhai, Thái Nguyên xử phạt Hà Văn H 09 tháng tù về tội “Đánh bạc” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng. Bản án số 15/2015/HS-ST ngày 01/06/2015 của Tòa án nhân dân huyện Võ Nhai, Thái Nguyên xử phạt Hà Văn H 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 28/08/2016 chấp hành xong hình phạt tù. Theo Phiếu lý lịch tư pháp số 2362/STP-LLTP ngày 03/6/2019 của Sở Tư pháp tỉnh Thái Nguyên cung cấp tình trạng án tích của Hà Văn H: Không có án tích. Bị cáo có nhân thân xấu, đã được các cơ quan pháp luật giáo dục, cải tạo nhiều lần, khi trở về nơi cư trú không cố gắng rèn luyện bản thân, H nhập cộng đồng, mà lại tàng trữ ma túy để sử dụng.

[3.3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải. Bị cáo là người dân tộc thiểu số sống trong vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, nhận thức pháp luật còn hạn chế nên có thể áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo. Tuy nhiên, do bị cáo đã từng bị kết án về các tội phạm khác nhau, đã được các cơ quan pháp luật giáo dục, cải tạo nhiều lần nay lại tiếp tục phạm tội nên không được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Như vậy, bị cáo có 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Lời đề nghị của người bào chữa về việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo không phù hợp với quy định của pháp luật và nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.

[3.4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tổng hợp nhận định ở trên, Hội đồng xét xử nhận thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn để đảm bảo việc răn đe, giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân huyện Gia Lâm tại phiên toà là phù hợp.

[3.5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo tại phiên toà thể hiện: Bị cáo không có việc làm, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Đối với số ma túy thu giữ của bị cáo là vật nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu, tiêu hủy.

Đối với chiếc xe máy kiểu dáng Dream II, màu nâu BKS 12F4-3761, số khung: 01520322, số máy: 01629322 thu giữ của Nguyễn Văn K: Qua xác minh chưa xác định được chủ sở hữu hợp pháp và cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Gia Lâm đã ra quyết định tách tài liệu về chiếc xe máy trên để tiếp tục điều tra, xử lý sau nên Hội đồng xét xử không xét.

Hoàn trả bị cáo Hà Văn H: 01 chiếc điện thoại di động màn hình cảm ứng màu đen, vỏ điện thoại có chữ Wiko, đã qua sử dụng; 01 ví màu nâu, cũ đã qua sử dụng và số tiền 1.330.000 đồng thu giữ của bị cáo do không có liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.

[5] Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[6] Về quyền kháng cáo: Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[7] Về các nội dung khác:

Đối với đối tượng bán ma túy cho H, do không xác định được nhân thân, Cơ quan điều tra không có căn cứ xử lý nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với bà Hoàng Thị C (mẹ của bị cáo H), quá trình điều tra bà Cai không biết và không liên quan đến hành vi phạm tội của H, Cơ quan điều tra không đề nghị xử lý nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với Nguyễn Văn K, quá trình điều tra xác định K không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo H, Cơ quan điều tra không đề nghị xử lý nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với hành vi sử dụng ma túy của Nguyễn Văn K là vi phạm pháp luật, Công an huyện Gia Lâm đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với K theo Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ là đúng quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hà Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

2.1. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Hà Văn H 15 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt quả tang 29/12/2019.

2.2. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

3.1. Tịch thu, tiêu huỷ 01 gói giấy bạc mầu trắng bên trong chứa chất bột mầu trắng là ma túy loại Heroine, có khối lượng 0,124 gam (đã trích mẫu để giám định 0,016 gam), hiện còn lại 0,108 gam thu giữ của bị cáo Hà Văn H, đựng trong 01 phong bì niêm phong có chữ ký của Hà Văn H và Giám định viên, do Phòng PC09-Công an thành phố Hà Nội hoàn lại sau giám định (tình trạng vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lâm và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Lâm ngày 05/05/2020).

3.2. Hoàn trả bị cáo Hà Văn H: 01 chiếc điện thoại di động màn hình cảm ứng màu đen, vỏ điện thoại có chữ Wiko, đã qua sử dụng; 01 ví màu nâu, cũ đã qua sử dụng và số tiền 1.330.000 đồng (tình trạng vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lâm và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Lâm ngày 05/05/2020 và số tiền 1.330.000 đồng hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Lâm đang quản lý theo Biên lai thu tiền số AA/2010/0001781 ngày 28/04/2020).

4. Về án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 và Điều 14 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Danh mục án phí, lệ phí Tòa án kèm theo.

Miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo Hà Văn H.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Văn K có quyền kháng cáo những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 74/2020/HS-ST ngày 28/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:74/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Lâm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về