Bản án 74/2020/HSST ngày 19/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HOÀN KIẾM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 74/2020/HSST NGÀY 19/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay ngày 19 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội, xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự, thụ lý số 64/2020/HSST ngày 16/4/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 64/QĐ-HS ngày 07 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

1. PHẠM QUANG T; sinh ngày 10 tháng 10 năm 1995 tại Hà Nội; hộ khẩu thường trú: Số 234 Phố P, phường P, quận H, Thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: (không); trình độ văn hóa: 12/12; con ông: Phạm Quang L và bà: Nguyễn Thị Lan P (đã chết).

Danh chỉ bản số: 33 lập ngày 04/01/2020 tại Công an quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội.

Tiền án: (không).

Tiền sự: Theo lý lịch địa phương cung cấp tháng 01/2017 Công an quận Hoàn xử phạt hành chính về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Tạm giữ: 30/12/2019; tạm giam: 08/01/2020 - (Có mặt).

2. LÊ XUÂN L; sinh ngày 11 tháng 8 năm 1996 tại Hà Nội; hộ khẩu thường trú và nơi ở: Số 3/256 B, phường C, quận H, Thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: (không); trình độ văn hóa: 12/12; con ông: Lê Xuân S (chết) và bà: Nguyễn Thị N.

Danh chỉ bản số: 34 lập ngày 04/01/2020 tại Công an quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội.

Tiền án, tiền sự: (không).

Tạm giữ: 30/12/2019; hủy bỏ tạm giữ: 08/01/2020 - (Có mặt).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Phạm Tuyết N; sinh năm 1984; hộ khẩu thường trú và nơi ở: Số 234 P, phường P, quận H, Hà Nội - (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án như sau:

Khoảng 21h30’ ngày 29/12/2019 tại quán internet 77 H, phường P, quận H, Thành phố Hà Nội, Tổ công tác Công an phường Đ trong khi làm nhiệm vụ phát hiện Phạm Quang T đang đưa cho Lê Xuân L 01 túi nylon màu trắng kích thước khoảng 1x1cm bên trong chứa tinh thể màu trắng, còn L đưa 200.000 đồng cho T thì bị tổ công tác kiểm tra bắt giữ T và L cùng toàn bộ tang vật đưa về trụ sở Công an phường P để giải quyết.

Ngoài ra còn thu giữ của Phạm Quang T: 01 ví da bên trong có 1.200.000đồng, 01 chứng minh nhân dân mang tên Phạm Quang T và 01 giấy đăng ký môtô mang tên Phạm Quang T; 01 chiếc xe máy nhãn hiệu H màu đỏ biển số 29C1 - 822.91; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu O màu đen kèm sim; 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu N màu đen kèm sim.

Thu giữ của Lê Xuân L: 01 chứng minh nhân dân mang tên Lê Xuân L.

Theo Kết luận giám định số 195/KLGĐ-PC09 ngày 07/01/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 01 gói nylom khối lượng 0,163 gam là ma túy loại Methamphetamine.

Tại Cơ quan điều tra, Phạm Quang T khai: Khoảng 20h30’ ngày 29/12/2019 T nhận được điện thoại của L hỏi mua 01 túi ma túy “đá” với giá 200.000đồng và hẹn giao ma túy tại 77 H, phường P, quận H, Thành phố Hà Nội. Tú đồng ý rồi một mình điều khiển xe máy đến ngã tư N - P, quận H, Thành phố Hà Nội gặp và mua của một người phụ nữ tên H (không rõ căn cước) 01 túi ma túy “đá” với giá 170.000đồng. Mua được ma túy, T mang đến 77 H để bán cho L. Khi T đưa túi ma túy cho L, còn L đưa T 200.000đồng thì bị tổ công tác kiểm tra bắt quả tang như đã nêu trên. Hai chiếc điện thoại thu giữ của T là tài sản của T sử dụng để liên lạc với gia đình bạn bè và liên lạc mua bán trái phép chất ma túy.

Lê Xuân L khai nhận phù hợp với lời khai của Phạm Quang T và khai: Đây là lần đầu L mua ma túy của T để sử dụng, khi T bán ma tuý cho L, còn L đưa tiền trả cho T thì cả hai bị tổ công tác kiểm tra bắt giữ như đã nêu trên.

Về đối tượng H bán ma túy cho Phạm Quang T, do T khai không rõ nhân thân, Cơ quan điều tra đã rút list điện thoại xác định chủ đăng ký thuê bao là Thái Thị Hương L, sinh năm 1980; nơi ở: P050716 Tòa nhà P khu đô thị V, phường M, quận M, Thành phố Hà Nội hiện chuyển đi đâu không rõ địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có căn cứ xác minh làm rõ để xử lý.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu H màu đỏ biển số 29C1 -822.91 thu giữ của Phạm Quang T, quá trình điều tra xác định là tài sản của T sử dụng làm phương tiện đi lại mua bán trái phép chất ma túy nên Cơ quan điều tra chuyển theo hồ sơ vụ án.

Bản cáo trạng số 59/CT-VKS ngày 07/4/2020 Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm truy tố Phạm Quang T về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 và Lê Xuân L về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo Phạm Quang T và Lê Xuân L khai vào khoảng 20h30’ ngày 29/12/2019 L gọi điện thoại cho T hỏi mua 01 gói ma túy đá với giá 200.000 đồng và hẹn giao ma túy tại 77 H, phường P, quận H, Hà Nội. T đồng ý rồi điều khiển xe máy đến ngã tư N - P, quận H, Thành phố Hà Nội gặp và mua của một người phụ nữ tên H (không rõ căn cước) 01 túi ma túy đá (theo kết luận định giá là 0,163gam Methamphetamine với giá 170.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, T mang đến địa điểm đã hẹn trước để bán cho L. Khi T đưa ma túy cho L, L đưa 200.000 đồng cho T thì bị Tổ công tác kiểm tra bắt quả tang.

Vì vậy, Viện kiểm sát quận Hoàn Kiếm giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Phạm Quang T về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 và Lê Xuân L về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015. Về hình phạt: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt Phạm Quang T với mức án từ 26 đến 30 tháng tù. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt Lê Xuân L với mức án từ 15 đến 18 tháng tù. Vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu huỷ toàn bộ ma tuý, 01 ví da đã cũ và 02 sim điện thoại. Trả bị cáo Lê Xuân L 01 chứng minh nhân dân mang tên bị cáo. Chiếc điện thoại di động N và điện thoại di động O thu giữ của bị cáo T, do điện thoại N liên quan đến hành vi phạm tội nên cho tịch thu sung quỹ Nhà nước. Trả bị cáo Tú 01 điện thoại di động O, 01 chứng minh nhân dân và 01 giấy đăng ký xe môtô đều mang tên bị cáo Phạm Quang T, 1.200.000 đồng và Chiếc xe máy nhãn hiệu H màu đỏ, biển số 29C1-822.91, số khung: RLHJA3916KY376513, số máy: JA369E1244386 giấy đăng ký mang tên Phạm Quang T.

Các bị cáo khai báo thành khẩn, xin Hội đồng xét xử cho các bị cáo hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về tố tụng: Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Hoàn Kiếm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. [2]. Về hành vi: Phạm Quang T mua của đối tượng tên là H (không rõ căn cước) 01 gói ma túy (theo kết luận giám định là 0,163 gam Methamphetamine) vào tối ngày 29/12/2019 với giá 170.000 đồng. T mua ma túy để bán cho Lê Xuân L đã gọi điện thoại trước đó cho T, L mua ma túy của T mục đích để sử dụng. Sau khi mua được ma túy, T mang đến 77 phố H, phường P, quận H, Thành phố Hà Nội để bán cho L như đã hẹn trước. Khi đến điểm hẹn, T giao ma túy cho L, L đưa 200.000 đồng cho T thì bị Công an phát hiện bắt quả tang cùng toàn bộ tang vật.

Như vậy, hành vi của Phạm Quang T đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tội và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015. Hành vi của Lê Xuân L đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội. Các bị cáo biết rõ hành vi mua, bán ma túy trái phép bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện.

Nhân thân: Bị cáo Phạm Quang T có 01 tiền sự về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy đã ngoài thời hiệu. Bị cáo Lê Xuân L chưa có tiền án, tiền sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo khai báo thành khẩn.

Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Với những phân tích trên; căn cứ tính chất hành vi phạm tội, căn cứ vào tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân các bị cáo; Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù đối với các bị cáo vừa có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với các bị cáo và phòng ngừa chung.

Biện pháp tư pháp:

+ Trả bị cáo Lê Xuân L: Một chứng minh thư nhân dân mang tên bị cáo.

+ Tịch thu, tiêu huỷ 0,163 gam Methamphetamine và 02 sim điện thoại.

+ Một ví da màu ghi nâu kẻ viền ngang màu xanh đỏ kích thước khoảng 10x10cm thu của bị cáo T (ví đã cũ, giá trị sử dụng không còn), bị cáo không xin lại nên cho tịch thu tiêu hủy.

+ Điện thoại di động N và điện thoại di động O thu giữ của bị cáo Tú, do điện thoại N liên quan đến hành vi phạm tội (điện thoại đã cũ, giá trị sử dụng không còn) nên cho tịch thu tiêu hủy. Điện thoại di động O, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo T.

+ Trả bị cáo Phạm Quang T: Một giấy căn cước công dân mang tên bị cáo.

+ Số tiền 1.200.000 đồng thu giữ của bị cáo T, trong đó có 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) là tiền bán ma túy cho tịch thu, sung quỹ Nhà nước. 1.000.000 (một triệu đồng) không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo T.

+ Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu H màu đỏ, biển số 29C1-822.91, số khung: RLHJA3916KY376513, số máy: JA369E1244386. Quá trình xác minh chiếc xe máy trên xe không có trong cơ sở dữ liệu xe vật chứng, Giấy đăng ký xe máy mang tên bị cáo Phạm Quang T. T khai tiền mua xe máy của chị N, T là người được chị N nhờ đứng tên trong Giấy đăng ký xe máy.

Chị Phạm Tuyết N khai xe máy trên chị bỏ tiền mua vào khoảng cuối năm 2019 với giá khoảng 18.000.000 đồng. Sau khi mua xe do bận nên chị Nhung nhờ T làm thủ tục đăng ký xe và đứng tên trong Giấy đăng ký xe máy. Như vậy, đủ căn cứ xác định chị Phạm Tuyết N là chủ sở hữu chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave alpha màu đỏ, biển số 29C1-822.91. Ngày 29/12/2019 chị N cho bị cáo T mượn xe máy đi chở khách, chị N không biết T sử dụng xe máy đi bán ma túy. Xét chị N không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo T nên trả xe máy cho chị cùng một giấy chứng nhận đăng ký xe máy số 063965, biển số 29C1-82291 mang tên Phạm Quang T.

Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: - PHẠM QUANG T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

- LÊ XUÂN L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2. Áp dụng: khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015.

3. Hình phạt:

Xử phạt: PHẠM QUANG T 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 30/12/2019.

4. Áp dụng: khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015.

5. Hình phạt:

Xử phạt: LÊ XUÂN L 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án. Được trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/12/2019 đến ngày 08/01/2020.

4. Biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

a. Tịch thu, tiêu huỷ:

+ Một phong bì niêm phong bên trong có: Một túi nylon màu trắng kích thước khoảng0,5x05cm bên trong chứa tinh thể màu trắng là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,163gam (PC09 Công an Thành phố Hà Nội đã trích mẫu để giám định 0,037gam, khối lượng còn lại là 0,126gam ma túy loại Methamphetamine), trên các mép niêm phong có chữ ký của đương sự Lê Xuân L, giám định viên.

+ Hai sim điện thoại cũ, đã qua sử dụng.

+ Một ví da màu nâu kẻ viền ngang màu xanh đỏ kích thước khoảng 10x10cm.

b. Sung quỹ Nhà nước:

+ Một điện thoại di động kiểu dáng N màu đen.

+ 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

c. Trả bị cáo Phạm Quang T:

+ Một điện thoại di động O màu đen. (máy điện thoại đã qua sử dụng, tại thời điểm kiểm tra không mở máy được, không rõ chất lượng hiện trạng, không kiểm tra được số IMEL trong máy).

+ Một giấy căn cước công dân mang tên Phạm Quang T.

+ 1.000.000 đồng (một triệu đồng).

d. Trả bị cáo Lê Xuân L:

+ Một chứng minh nhân thư dân mang tên Lê Xuân L.

đ. Trả chị Phạm Tuyết N:

+ Một xe máy nhãn hiệu H màu đỏ, số khung: RLHJA3916KY376513, số máy: JA369E1244386 (xe máy đã qua sử dụng, không rõ chất lượng, hiện trạng).

+ Một biển số: 29C1-822.91

+ Một giấy chứng nhận đăng ký xe máy số 063965, biển số 29C1-82291 mang tên Phạm Quang T.

(Tang vật giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hoàn Kiếm - theo Biên bản giao nhận tang vật, vật chứng ngày 05/05/2020 và Giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 06/5/2020).

5. Án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

6. Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt, có quyền kháng cáo về những vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 74/2020/HSST ngày 19/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:74/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về