Bản án 74/2019/HSST ngày 19/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 74/2019/HSST NGÀY 19/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu mở phiên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 75/2019/HSST ngày 03 tháng 6 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 76/2019/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 6 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu đối với bị cáo:

Lò Văn U; tên gọi khác: Không; sinh năm: 1962 tại xã Muổi Nọi, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: bản Phiêng Bông, xã Muổi Nọi, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hoá: 6/10; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; con ông Lò Văn L, (đã chết) và bà Lò Thị D, sinh năm 1932; có vợ là Tòng Thị P, sinh 1964 và có 03 con, lớn nhất 34 tuổi nhỏ nhất 29 tuổi; nhân thân: có 03 tiền án đã xóa án tích (năm 1988 Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La xử phạt 24 tháng tù giam về tội trộm cắp tài sản, năm 2002 Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La xử phạt 30 tháng tù giam về tội vận chuyển trái chất ma túy, năm 2006 Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La xử phạt 30 tháng tù giam về tội tàng trữ trái chất ma túy); tiền sự: 01 tiền sự (Ngày 10/01/2019 Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 24 tháng, đang được hoãn thi hành); bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/03/2019 đến nay, có mặt.

Người có quyền lợi liên quan: chị Tòng Thị P, sinh 1964, nơi cư trú: bản P, xã Muổi Nọi, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 14 giờ 30 phút ngày 15/03/2019 Tổ công tác Công an xã Muổi Nọi, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, làm nhiệm vụ tại khu vực bản Phiêng Bông, xã Muổi Nọi, huyện Thuận Châu, Sơn La, phát hiện bắt quả tang Lò Văn U sinh 1962 trú tại bản Ph, xã Muổi Nọi, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La có hành vi tàng trữ trái phép chép chất ma túy.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 gói ni lông màu trắng bên trong có chứa bột cục màu hồng, theo Lò Văn U khai là ma túy tổng hợp; 01 gói ni lông màu xanh bên trong có chứa bột cục màu trắng – hồng, theo Lò Văn U khai là Heroin trộn với ma túy tổng hợp; 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu SANDABOOS; loại xe BOSS50 BKS 26AA 127.94. ( BL 01 – 02 hồ sơ).

Hồi 18 giờ 20 phút ngày 15/03/2019, Công an huyện Thuận Châu phối hợp với Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La đã tiến hành cân tịnh số bột màu trắng thu giữ của Lò Văn U và xác định được khối lượng: gói ni lông màu trắng có khối lượng 0,36 gam, rút toàn bộ đánh ký hiệu U1; gói ni lông màu xanh có khối lượng 0,13 gam, rút toàn bộ đánh ký hiệu U2. Các mẫu U1, U2 gửi Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La để giám định chất ma túy. (BL 27 hồ sơ).

Tại Kết luận giám định số: 628/KLMT ngày 20/03/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu gửi giám đinh ký hiệu U1 là chất ma túy; loại chất Methamphetamine; tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,36 gam; không hoàn lại mẫu vật gửi giám định. Mẫu gửi giám đinh ký hiệu U2 là chất ma túy; loại chất Heroine và Methamphetamine; tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,13 gam, không hoàn lại mẫu vật gửi giám định. Tổng khối lượng chất ma túy thu giữ là 0,36 gam loại chất Methamphetamine và 0,13 loại chất Heroin và Methamphetamine. ( BL 30 hồ sơ ).

Quá trình điều tra Lò Văn U đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như sau:

Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 15/3/2019, Lò Văn U điều khiển xe mô tô đi một mình từ nhà ở bản Phiêng Bông, xã Muổi Nọi, huyện Thuận Châu đi lên xã Chiềng Pấc, huyện Thuận Châu, để tìm mua ma túy về sử dụng. Khi đi đến khu vực bản Nà Luông, xã Chiềng Pấc, Lò Văn U mua được của Nguyễn Thị H sinh 1974 trú tại bản Sen To, xã Tông Cọ , huyện Thuận Châu 01 gói nilon màu trắng bên trong có ma túy tổng hợp và 01 gói nilon màu xanh bên trong có chứa hỗn hợp chất Heroine và ma túy tổng hợp với giá 400.000đ. Sau khi mua, Lò Văn U cất 02 gói ma túy vào trong miệng rồi điều khiển xe mô tô đi về nhà. Khi đi đến khu vực bản Phiêng Bông, xã Muổi Nọi, huyện Thuận Châu thì bị tổ công tác Công an xã Muổi Nọi, huyện Thuận Châu phát hiện bắt quả tang. ( BL 33 44 hồ sơ ).

Tại phiên tòa, lời khai, lời trình bày ý kiến của bị cáo phù hợp với nội dung bản cáo trạng và các tài liệu khác trong hồ sơ vụ án như: biên bản hỏi cung bị can; biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản thu giữ, niêm phong, mở niêm phong vật chứng của vụ án để lấy mẫu giám định; kết luận giám định.

Bản cáo trạng số 75/CT-VKS ngày 03-6-2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đề nghị truy tố bị cáo Lò Văn U về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 BLHS 2015 Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu giữ quyền công tố luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố đối với Lò Văn U về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Lò Văn U phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Lò Văn U từ 15 tháng đến 20 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày 15-3-2019 ( là ngày bắt tạm giữ, tạm giam bị cáo).

Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47; Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 tuyên tịch thu tiêu hủy: Một phong bì thư niêm phong có viền xanh đỏ, ngoài ghi: Vật chứng nhập kho vụ Lò Văn U – Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 15/3/2019: 01 (một) mảnh nilon màu trắng; 01 (một) mảnh nilon màu xanh; 01 (một) vỏ phong bì niên phong vật chứng ban đầu.

Trả cho chị Tòng Thị P, chủ sở hữu hợp pháp: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu SANDABOOS; loại xe BOSS50 BKS 26AA-127.94, số khung BMN4JH001140, số máy 9FMBSD001140, xe đã qua sử dụng cũ.

Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lời nói sau cùng của bị cáo Lò Văn U : Nhất trí với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát đề nghị truy tố, xét xử bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Nay bị cáo đã thực sự nhận ra lỗi lầm, bị cáo rất ân hận, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét hành vi tàng trữ trái phép 0,49 gam ma túy trong đó: 0,36 gam chất Methamphetamine và 0,13 hỗn hợp chất Heroine và Methamphetamine với mục đích sử dụng cho bản thân là vi phạm pháp luật. Bởi, bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức, điều khiển được hành vi của mình để nhận thức được hành vi mua, tàng trữ trái phép chất ma túy là hành vi nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015 như quan điểm truy tố và luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu.

Tại Điều 249 BLHS 2015 quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

………………………….

c) Heroine, cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

……………………………

i) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm h khoản này.

..................................

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”

[3] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội bởi hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý và là nguyên nhân làm gia tăng những tệ nạn xã hội và tội phạm hình sự, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự an toàn xã hội và an ninh quốc gia. Do đó cần áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249 BLHS 2015 có mức hình phạt từ 01 năm đến 05 năm tù giam đối với bị cáo Lò Văn U.

[4] Xét nhân thân bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, có nhân thân rất xấu, có 03 tiền án và 01 tiền sự; biết rõ tác hại của ma túy mà vẫn cố ý phạm tội nên cần có mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật trong việc đấu tranh với tệ nạn ma túy. Cần cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo để trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội.

[5] Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo tàng trữ ma túy với số lượng không lớn, mục đích chỉ để sử dụng cho bản thân; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa đã ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

[6] Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự 2015.

[7] Đối với hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 5 Điều 249 BLHS. Xét thấy bị cáo là người nghiện ma túy không có tài sản nên không có khả năng thi hành án nên miễn hình phạt bổ xung là phạt tiền cho bị cáo.

[8] Về vật chứng:

Đối với một phong bì thư niêm phong có viền xanh đỏ, ngoài ghi: Vật chứng nhập kho vụ Lò Văn U – Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 15/3/2019: 01 (một) mảnh nilon màu trắng; 01 (một) mảnh nilon màu xanh; 01 (một) vỏ phong bì niên phong vật chứng ban đầu là công cụ phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội, hết giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu SANDABOOS; loại xe BOSS50 BKS 26AA 127.94, số khung BMN4JH001140, số máy 9FMBSD001140, xe đã qua sử dụng cũ. Quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định chị Tòng Thị P là chủ sở hữu hợp pháp, chị Pản không biết việc bị cáo sử dụng xe làm phương tiện đi mua ma túy cần trả cho chị Tòng Thị P.

[9] Đối với Nguyễn Thị H, người bị cáo khai đã bán ma túy cho bị cáo với giá 400.000 đồng, cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thuận Châu đã tiến hành xác minh và xác định Nguyễn Thị Hạnh cư trú tại bản Sen To, xã Tông Cọ, huyện Thuận Châu nhưng hiện nay Nguyễn Thị Hạnh không có mặt tại địa phương, do vậy Cơ quan điều tra sẽ điều tra không có căn cứ mở rộng vụ án, cần chấp nhận.

[10] Bị cáo đang bị tạm giam, cần tiếp tục giam giữ bị cáo trong hạn 45 ngày, kể từ ngày tuyên án theo quy định tại khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự.

[11] Gia đình bị cáo thuộc hộ nghèo được miễn án phí hình sự sơ thẩm điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016 /UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh:

Tuyên bố bị cáo Lò Văn U phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

2. Về hình phạt:

Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Lò Văn U 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày 15-3-2019 ( là ngày bắt giam giữ bị cáo ).

Bị cáo đang bị tạm giam, cần tiếp tục giam giữ bị cáo trong hạn 45 ngày, kể từ ngày tuyên án theo quy định tại khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự

3. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47; Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tuyên tịch thu tiêu hủy: Một phong bì thư niêm phong có viền xanh đỏ, ngoài ghi: Vật chứng nhập kho vụ Lò Văn U – Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 15/3/2019: 01 (một) mảnh nilon màu trắng; 01 (một) mảnh nilon màu xanh; 01 (một) vỏ phong bì niên phong vật chứng ban đầu.

- Trả cho chị Tòng Thị P, chủ sở hữu hợp pháp: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu SANDABOOS; loại xe BOSS50 BKS 26AA 127.94, số khung BMN4JH001140, số máy 9FMBSD001140, xe đã qua sử dụng cũ.

4. Án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

5. Quyền kháng cáo Áp dụng Điều 331, 333 BLTTHS năm 2015 báo cho bị cáo được quyền kháng cáo bản án; người có quyền lợi liên quan có quyền kháng cáo phần trực tiếp liên quan đến quyền lợi của mình trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

244
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 74/2019/HSST ngày 19/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:74/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về