Bản án 74/2019/HS-ST ngày 08/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUYÊN MỘC, TỈNH BÀ RỊA VŨNG TÀU

BẢN ÁN 74/2019/HS-ST NGÀY 08/11/2019 VỀ TI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 08 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 71/2019/TLST–HS ngày 14 tháng 10 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 71/2019/QĐXXST–HS ngày 25 tháng 10 năm 2019, đối với bị cáo:

Phạm Ngọc S (tên gọi khác: T), sinh năm 1996 tại: Bà Rịa Vũng Tàu.

Hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: ấp 01, xã BR, huyện X, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 8/12; dân tộc: kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn L, sinh năm: 1967 và bà Lê Thị H, sinh năm: 1969;

- Tiền án: Không - Tiền sự: Bị Tòa án nhân dân huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 01 (một) năm 03 (ba) tháng kể từ ngày 04/5/2016, theo quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính số: 38/QĐ-TA ngày 12/7/2016 của Tòa án nhân dân huyện Xuyên Mộc.

Người làm chứng:

- Ông Phan Quốc D, sinh năm: 1986 Địa chỉ: ấp TĐ, xã BT, huyện X, tỉnh BR – VT.

- Ông Trần Văn Hà, sinh năm: 1985 Địa chỉ: ấp TN, xã BT, huyện X, tỉnh BR – VT. (Bị cáo có mặt, hai người làm chứng vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 16 giờ 30 phút ngày 20/6/2019, Đồn Biên phòng Phước Thuận phát hiện bị cáo Phạm Ngọc S, sinh năm: 1996 trú tại: ấp 01, xã BR, huyện X, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, có biểu hiện sử dụng ma túy nên đã yêu cầu kiểm tra bị cáo. Qua công tác kiểm tra, phát hiện bị cáo cất giấu trong người 05 (năm) gói nilong, bên trong có chứa chất kết tinh không màu trong suốt, nghi là ma túy đá. Bộ đội biên phòng Bình Châu đã lập biên bản thu giữ và niêm phong 05 (năm) gói nilong nói trên trong một phong bì màu trắng, có hình dấu của Đồn biên phòng Phước Thuận cùng chữ ký của bị cáo và những người liên quan.

Bị cáo khai nhận, chất kết tinh không màu trong suốt bên trong 05 (năm) gói nilong là ma túy đá. Toàn bộ số ma túy này là của bị cáo, bị cáo mua từ một người tên Hùng không rõ lai lịch ở xã Bình Châu, huyện Xuyên Mộc, tỉnh BR – VT với giá 500.000đ (năm trăm ngàn đồng), mục đích bị cáo mua là để sử dụng.

Căn cứ vào kết luận giám định số 250/GĐMT-PC09(Đ4) ngày 24/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, xác định: 05 (năm) gói nilong bên trong có chất kết tinh không màu trong suốt, thu giữ của bị cáo đều là ma túy loại Methamphetamine, có tổng khối lượng là 0,3554 gam.

Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã nêu.

- Vật chứng của vụ án gồm: 01 (một) phong bì niêm phong, có ký hiệu vụ số 250/GĐMT-PC09 (Đ4) ngày 24/6/2019, bên trong có chứa ma tuý còn lại sau giám định.

- Đối với người người tên Hùng không rõ lai lịch ở xã Bình Châu, huyện Xuyên Mộc, tỉnh BR – VT bị cáo khai đã bán ma túy cho bị cáo, cơ quan điều tra chưa làm việc được nên tách riêng để tiếp tục điều tra, nếu có căn cứ sẽ xử lý sau.

- Tại phiên tòa, trong phần tranh luận, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Xuyên Mộc trình bày ý kiến luận tội như sau:

+ Giữ nguyên quyết định truy tố của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Xuyên Mộc tại bản Cáo trạng số 70/CT-VKS-XM ngày 14/10/2019 đối với bị cáo Phạm Ngọc S (tên gọi khác: T) về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

+ Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Phạm Ngọc S từ 16 (mười sáu) đến 20 (hai mươi) tháng tù; Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ.

+ Về hình phạt bổ sung: Bị cáo tàng trữ ma túy để sử dụng, không nhằm mục đích bán lại kiếm lời nên không có thu nhập vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

+ Về vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu huỷ 01 (một) phong bì niêm phong, có ký hiệu vụ số 250/GĐMT-PC09(Đ4) ngày 24/6/2019, bên trong có chứa ma tuý còn lại sau giám định.

- Bị cáo thống nhất với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát, không tự bào chữa, không phát biểu ý kiến tranh luận gì với Kiểm sát viên.

- Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra huyện Xuyên Mộc, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuyên Mộc trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đúng quy định pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuyên Mộc đã truy tố. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và phù hợp với lời khai của người làm chứng, thể hiện:

Do nghiện ma túy từ trước nên bị cáo đã gặp một người tên Hùng, không rõ lai lịch ở xã Bình Châu, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và mua 500.000đ (năm trăm ngàn đồng) ma túy loại Methamphetamine từ người này để sử dụng. Đến 16 giờ 30 phút ngày 20/6/2019, khi đang đứng ở đường liên thôn thuộc ấp TN, xã BT, huyện X, bị cáo đã bị Đồn Biên phòng Phước Thuận bắt quả tang đang tàng trữ 05 gói nilong, bên trong có chứa ma túy loại Methamphetamine, tổng khối lượng là 0,3554 gam để sử dụng. Căn cứ vào Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính Phủ, về việc “Ban hành các danh mục chất ma túy và tiền chất” thì chất Methamphetamine là chất nằm trong Danh mục II, STT 67 và đây là chất ma túy tuyệt đối cấm sử dụng trong đời sống xã hội.

Từ những phân tích nêu trên cho thấy hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bộ sung năm 2017.

Như vậy, có đủ cơ sở kết luận cáo trạng số: 70/CT-VKS-XM ngày 14/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuyên Mộc truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Xét về tính chất, mức độ nghiêm trọng đối với hành vi phạm tội của bị cáo:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, đã xâm phạm đến chế độ quản lý các chất ma túy của Nhà nước và gây ra những tác hại rất lớn về nhiều mặt cho xã hội; gây mất trật tự trị an tại địa phương; là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm xã hội khác.

Bị cáo là người đã trưởng thành, bản thân bị cáo nghiện ma túy và đã từng bị Tòa án nhân dân huyện Xuyên Mộc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời hạn 01 (một) năm 03 (ba) tháng, hơn ai hết bị cáo phải biết tác hại của ma túy, cũng như quy định của pháp luật là nghiêm cấm mọi hành vi tàng trữ trái phép các chất ma túy nhưng vì phục vụ nhu cầu nghiện hút của bị cáo mà bị cáo đi vào con đường phạm tội.

Để tăng cường biện pháp đấu tranh, phòng chống tội phạm ma túy tại địa phương nói chung, cũng như giáo dục riêng đối với bị cáo. Xét thấy, cần tuyên xử bị cáo một mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo; cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người tốt, đồng thời nhằm giáo dục phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự 2015 nhưng bị cáo có 01 tiền sự về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Vì vậy, cần áp dụng các tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

[6] Về hình phạt bổ sung: xét thấy, bị cáo tàng trữ ma túy không nhằm mục đích bán để kiểm lời mà chỉ để sử dụng nên không phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

[7] Về vật chứng vụ án: 01 (một) phong bì niêm phong, có ký hiệu vụ số 250/GĐMT-PC09(Đ4) ngày 24/6/2019, bên trong có chứa ma tuý còn lại sau giám định là chất nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Ngọc S (T) phạm tội“Tàng trữ trái phép chất ma tuý”

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Ngọc S (T) 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 20/6/2019.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự, tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong, có ký hiệu vụ số: 250/GĐMT-PC09 (Đ4) ngày 24/6/2019, bên trong có chứa ma tuý còn lại sau giám định.

Vật chứng hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Xuyên Mộc theo quyết định chuyển vật chứng số 37/QĐ-VKS-XM ngày 14/10/2019 và biên bản giao nhận vật chứng số: 02/BB ngày 14/10/2019.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 23, Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo Phạm Ngọc S (T) phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh BR – VT xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các Điều 6,7, 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

137
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 74/2019/HS-ST ngày 08/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:74/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuyên Mộc - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về