Bản án 74/2019/HS-PT ngày 20/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 

BẢN ÁN 74/2019/HS-PT NGÀY 20/02/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 02 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 595/2018/TLPT-HS ngày 27/12/2018 đối với bị cáo Lý K D do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 145/2018/HSST ngày 19/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện BC, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị cáo có kháng cáo:

Lý K D; giới tính: Nam; sinh năm 1994; tại: Thành phố Hồ Chí Minh; nơi ĐKHKTT và chỗ ở: B4/X ấp 2, xã BC, huyện BC, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 10/12; nghề nghiệp: Làm thuê; con ông Lý NT, sinh năm 1967 và bà Lê TP, sinh năm 1973; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giam từ ngày 10/7/2018 (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lý K D là người nghiện ma túy được khoảng một năm. Vào khoảng 14h00’ ngày 10/7/2018, do hết ma túy sử dụng nên D đi bộ đến tiệm game online trên Đường K - khu vực chợ BC gặp bạn tên Tý (không rõ lai lịch) nhờ mua giúp D 1.000.000 đồng ma túy đá, Tý đồng ý. Một lát sau, Tý gọi D đến khu vực chân cầu vượt cao tốc Trung Lương giao với đường đê bao Cốm - thuộc Khu phố 2, thị trấn Tân Túc, huyện BC để gặp người bán ma túy tên Khánh (không rõ lai lịch) mua ma túy. Sau đó, D đón xe Honda ôm đến địa điểm trên thì gặp Khánh điều khiển xe gắn máy hiệu Honda Winner chở theo một phụ nữ (không rõ lai lịch), D đưa cho Khánh 1.000.000 đồng. Một lúc sau, Tý điện thoại nói cho D biết ma túy được dán trên cột điện cách chỗ D và Khánh gặp nhau khoảng 10m. D đi đến cột điện thì nhìn thấy trên cột có dán 01 bịch nylon, bên trong có 06 gói nylon hàn kín chứa ma túy, D lấy số ma túy này rồi đón xe ôm về nhà. Trên đường về, D gặp bạn tên Tiến (không rõ lai lịch), cả hai đến một quán nước (không rõ địa chỉ), D lấy một ít ma túy ra để cả hai sử dụng chung, số ma túy còn lại D mang về nhà bỏ vào túi vải màu đen cất giữ trong túi quần đang mặc. Đến khoảng 20h00’ cùng ngày, D gọi điện cho bạn là Võ HD rủ đi uống cà phê, Dự đồng ý và điều khiển xe gắn máy biển số 59N2 – 410.82 chở D đến ngã ba đường Giao thông hào – Rạch Ông Đồ (thuộc tổ K ấp 1, xã BC, huyện BC) thì bị đội Cảnh sát trật tự cơ động Công an huyện BC phối hợp với Công an xã BC đi tuần tra nghi vấn kiểm tra. Qua kiểm tra, D tự lấy trong túi quần phía trước bên trái ra 01 túi vải màu đen, bên trong có 06 gói nylon hàn kín, D khai nhận có chứa ma túy bên trong, mục đích để sử dụng cho bản thân; nên Công an lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, lập hồ sơ rồi chuyển đến Công an huyện BC để điều tra giải quyết theo thẩm quyền.

Tại bản kết luận giám định số 1198/KLGĐ - H ngày 13/7/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Tinh thể không màu trong 06 gói nylon được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Lý K D, Đặng Xuân Hậu (điều tra viên), Lê Quang Tuấn (Trưởng công an xã BC), Võ HD (người chứng kiến) và hình dấu Công an xã BC, huyện BC gửi đến giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,6540g, loại Methamphetamine (sau giám định còn lại là 0,5740g).

Tại Cơ quan CSĐT Công an huyện BC, Lý K D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung nêu trên.

Vật chứng vụ án: 06 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng; 01 túi vải màu đen; 01 điện thoại di động hiệu Vega màu đen gắn sim số 01693276009; 01 xe gắn mắy biển số 59N1 – 410.82; 01 điện thoại di động hiệu Samsung.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 145/2018/HSST ngày 19/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện BC, Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên xử: Tuyên bố bị cáo Lý K D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm c Khoản 1 và Khoản 5 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Xử phạt: bị cáo Lý K D 02 (Hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 10/7/2018.

Buộc bị cáo D nộp phạt số tiền 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) sung quỹ Nhà nước.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 29/11/2018, bị cáo Lý K D kháng cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện BC kháng với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt vì mức án quá nặng so với hành vi phạm tội của mình.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lý K D bổ sung yêu cầu kháng cáo đề nghị xin giảm nhẹ hình phạt và hình phạt bổ sung là phạt tiền vì hoàn cảnh gia đình khó khăn không có khả năng thi hành án.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố sau khi tóm tắt nội dung vụ án, phân tích tính chất, mức độ và hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra cũng như các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; đã kết luận đủ căn cứ xác định bản án sơ thẩm xét xử bị cáo Lý K D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là đúng người, đúng tội, không oan sai. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo kháng cáo trong thời gian luật định và tại phiên tòa bổ sung yêu cầu kháng cáo là hợp lệ nên cần được xem xét.

Bị cáo Lý K D kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cũng như xin xem xét về hình phạt bổ sung nhưng tại phiên tòa không có thêm tình tiết giảm nhẹ gì mới, mức án 02 (hai) năm tù và hình phạt bổ sung mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt đối với bị cáo là phù hợp. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lý K D và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Bị cáo không tranh luận chỉ xin xem xét giảm nhẹ hình phạt và xem xét khoản tiền phạt vì bị cáo phạm tội lần đầu, gia đình có hoàn cảnh khó khăn và nhận thức được sai phạm của mình, tạo cơ hội cho bị cáo chấp hành án và làm lại cuộc đời.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên và bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Tại phiên tòa, bị cáo Lý K D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung bản án sơ thẩm và bản cáo trạng truy tố; phù hợp với các tài liệu, chứng cứ: biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, biên bản thu giữ đồ vật – tài liệu, lời khai người làm chứng, bản kết luận giám định cùng các tài liệu, biên bản về hoạt động tố tụng khác của Cơ quan điều tra đã thu thập có trong hồ sơ vụ án.

Đã đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng 21h00’ ngày 10/7/2018, bị cáo Lý K D đã có hành vi cất giữ trái phép 06 gói ma túy với mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị cơ quan Công an phát hiện bắt quả tang thu giữ cùng vật chứng tại ngã ba đường Giao Thông Hào – Rạch Ông Đồ (thuộc tổ 9, ấp 1, xã BC, huyện BC, Thành phố Hồ Chí Minh).

Vật chứng thu giữ của bị cáo: Theo bản kết luận giám định số 1198/KLGĐ - H ngày 13/7/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,6540g, loại Methamphetamine.

Với trọng lượng ma túy đã cất giữ trái phép và hành vi nêu trên của bị cáo, Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên bố và xét xử bị cáo Lý K D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là đúng người, đúng tội, không oan sai.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 29/11/2018, bị cáo Lý K D có đơn kháng cáo là làm trong thời hạn luật định nên hợp lệ và tại phiên tòa bổ sung yêu cầu kháng cáo phù hợp với quy định tại Điều 342 Bộ luật Tố tụng hình sự nên được chấp nhận.

Xét về nội dung kháng cáo: Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã nhận định về các tình tiết: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu, chưa có tiền án, tiền sự và số lượng ma túy bị cáo tàng trữ không lớn; là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để cân nhắc, xem xét xử phạt bị cáo Lý K D mức án 02 (hai) năm tù và phạt bổ sung một khoản tiền để sung quỹ Nhà nước là thỏa đáng; mới đủ tác dụng để răn đe giáo dục bị cáo nói riêng và công tác đấu tranh phòng chống tội phạm chung.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lý K D kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không xuất trình được tình tiết giảm nhẹ gì mới, các tình tiết bị cáo nêu ra đã được Tòa án cấp sơ thẩm xem xét đầy đủ, toàn diện khi quyết định hình phạt nên không có cơ sở pháp luật để chấp nhận đối với yêu cầu kháng cáo này của bị cáo Lý K D.

Tuy nhiên, về hình phạt bổ sung là hình phạt tiền: Hội đồng xét xử phúc thẩm xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo Lý K D: phạm tội lần đầu, số lượng ma túy tàng trữ không lớn để sử dụng cho bản thân và thuộc thành phần lao động nghèo, làm thuê không có tài sản; nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo Lý K D. Do đó, yêu cầu kháng cáo bổ sung của bị cáo về phần này được chấp nhận và sửa bản án sơ thẩm không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

Về án phí: Do yêu cầu kháng cáo được chấp nhận một phần nên bị cào Lý K D không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Các vấn đề khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

+Căn cứ vào các điểm b Khoản 1 Điều 355; điểm a Khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng Hình sự 2015.

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lý K D và sửa bản án sơ thẩm.

Tuyên bố: bị cáo Lý K D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

+Căn cứ điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Lý K D 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 10/7/2018. Bị cáo Lý K D không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

286
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 74/2019/HS-PT ngày 20/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:74/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về