TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH PHƯỚC
BẢN ÁN 74/2019/HS-PT NGÀY 18/09/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 18/9/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 60/2019/TLPT-HS ngày 29/7/2019 đối với các bị cáo Đào Trí H, Nguyễn Phi H, Nguyễn Văn T, Nguyễn Hùng T.
Do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 20/2019/HS-ST ngày 10/06/2019 của Tòa án nhân dân thị xã B, tỉnh Bình Phước.
Các bị cáo kháng cáo:
1. Đào Trí H, sinh năm 1979 tại Bình Phước; tên gọi khác: H Bảy Viễn; HKTT: Tổ 08, khu phố A, phường A, thị xã B, tỉnh Bình Phước. nghề nghiệp: Làm vườn; trình độ văn hoá: 04/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đào Ngọc C, sinh năm: 1945 (Đã chết) và bà Đoàn Thị B, sinh năm: 1953; bị cáo có có 06 anh chị em ruột, người lớn nhất sinh năm: 1975, nhỏ nhất sinh năm: 1988; bị cáo có vợ: Giang Phú L, sinh năm 1978; có 01 người con, sinh năm: 2009; Tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân: ngày 13/01/2003 bị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước xử phạt 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Ngày 31/12/2009 bị Tòa án nhân dân huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Bị cáo bị tạm giam, tạm giữ từ ngày 21/12/2018 đến ngày 01/02/2019, được trả tự do và áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 01/02/2019 đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
2. Nguyễn Hùng T, sinh năm 1991 tại Bình Phước; tên gọi khác: Tý T HKTT: Tổ 2, khu phố P, phường P, thị xã B, tỉnh Bình Phước. Nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Hùng B, sinh năm: 1970 và bà Cao Thị T, sinh năm: 1972; Bị cáo có 01 em ruột sinh năm: 2001; bị cáo có vợ: Bùi Thị Kiều M, sinh năm 1996. Tiền án: 01: (ngày 10/9/2018 bị Tòa án nhân dân thị xã B xét xử 02 năm tù cho hưởng án treo thời gian thử thách 04 năm về tội “Cố ý gây thương tích”); tiền sự: Không.
Nhân thân: ngày 11/02/2015 bị Công an huyện B, tỉnh Tây Ninh xử phạt hành chính 4.000.000đ (Bốn triệu đồng) về hành vi xuất nhập cảnh trái phép.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/12/2018 đến ngày 01/02/2019, được trả tự do và áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 01/02/2019 đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
3. Nguyễn Phi H, sinh năm 1996 tại Bình Phước. HKTT: Tổ 02, khu phố P, phường P, thị xã B, tỉnh Bình Phước. Nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn P, sinh năm: 1959 và bà Trần Thị X, sinh năm: 1968; bị cáo có 01 anh ruột sinh năm: 1994. Tiền án: không, tiền sự: 01 (ngày 28/5/2018 bị Công an phường A, thị xã B xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Đánh bạc). Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/12/2018 đến ngày 01/02/2019, được trả tự do và áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 01/02/2019 đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
4. Nguyễn Văn T, sinh năm 1988 tại Bình Phước; tên gọi khác: T V. HKTT: Tổ 05, ấp T, xã T, thị xã B, tỉnh Bình Phước. Nghề nghiệp: Cạo mủ; trình độ văn hoá: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn V, sinh năm: 1963 (Đã chết) và bà Nguyễn Thị T, sinh năm: 1962; bị cáo 02 em ruột, em lớn sinh năm 1989, nhỏ sinh năm: 1992; bị cáo có vợ: Tạ Thị Tuyết T, sinh năm 1990, bị cáo có 01 người con sinh năm: 2013. Tiền án: không, tiền sự: 01 (ngày 11/6/2018 bị Công an thị xã B xử phạt hành chính 1.500.000đ về hành vi Đánh bạc. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/12/2018 đến ngày 01/02/2019, được trả tự do và áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 01/02/2019 đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Ngoài ra, trong vụ án còn có các bị cáo khác nhưng không có kháng cáo, kháng nghị nên Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo Bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân thị xã B, tỉnh Bình Phước thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 13 giờ 30 phút, ngày 21/12/2018 Nguyễn H, Đào Trí H, Nguyễn Hùng T, Nguyễn Thị T, Ngô Thị B, Nguyễn Phi H, Nguyễn Thị Khánh V, Nguyễn Thị Hữu T và Nguyễn Văn T lần lượt đi đến bãi đất trống thuộc tổ 04, khu phố A, phường A, thị xã B, tỉnh Bình Phước, để tụ tập chơi “Xóc đĩa”, tất cả thống nhất cách đánh bạc. Trong nhóm cử ra một người làm cái để “Xóc đĩa” còn những người khác thì đặt tiền với cách thức thắng, thua là lấy 04 mảnh giấy có một mặt xanh và một mặt trắng (gọi là “Vị”), để lên 01 cái đĩa và dùng 01 cái chén con đậy lại. Người làm cái sẽ dùng hai tay cầm chén đĩa lên lắc đều rồi để xuống trước mặt mọi người. Những người tham gia chơi sẽ bắt đầu đặt tiền vào vị trí có quy ước trong tấm bạt trải trên nền đất chia làm 02 ô, một ô Chẵn, một ô Lẻ để người tham gia đánh bạc. Nếu mở chén ra trên đĩa có 01 mặt giấy màu xanh + 03 mặt giấy màu trắng hoặc 01 mặt giấy màu trắng – 03 mặt giấy màu xanh là Lẻ ai đặt tiền ở ô Lẻ thì thắng với tỉ lệ 01 ăn 01, người cái chung (đưa) tiền cho bên Lẻ và ăn (lấy) tiền bên Chẳn. Còn nếu mở chén ra trên đĩa có 02 mặt giấy màu xanh – 02 mặt trắng hoặc 04 mặt trắng hoặc 04 mặt xanh là Chẳn, ai đặt tiền ở ô Chẳn thì thắng với tỉ lệ thắng thua như bên Lẻ.
Với quy ước cách chơi như trên Nguyễn H sử dụng toàn bộ số tiền là 15.000.000đ (Mười lăm triệu đồng) để tham gia đánh bạc và là người làm cái;
Đào Trí H dùng số tiền 1.000.000đ (Một triệu đồng) để đánh bạc; Nguyễn Hùng T dùng số tiền 11.050.000đ (Mười một triệu năm mươi ngàn đồng) để đánh bạc; Nguyễn Phi H dùng số tiền 8.050.000đ (Tám triệu năm mươi ngàn đồng) để đánh bạc; Nguyễn Văn T dùng số tiền 5.000.000đ (Năm triệu đồng) để đánh bạc; Nguyễn Thị Hữu T dùng số tiền 587.000đ (Năm trăm tám mươi bảy ngàn đồng) để đánh bạc; Nguyễn Thị T dùng số tiền 4.000.000đ (Bốn triệu đồng) để đánh bạc; Nguyễn Thị B dùng số tiền 100.000đ (Một trăm ngàn đồng) để đánh bạc; Nguyễn Thị Khánh V dùng số tiền 600.000đ (Sáu trăm ngàn đồng) để đánh bạc, cùng một số người khác (không rõ lai lịch) cũng đặt tiền tham gia đánh bạc. Trong quá trình đánh bạc H làm cái đến khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày thì thắng được 1.000.000đ (Một triệu đồng) H để trên chiếu bạc, H thua hết 700.000đ (Bảy trăm ngàn đồng) còn 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) H để trên chiếu bạc; T thua số tiền là 3.000.000đ (Ba triệu đồng); H thắng được 1.500.000đ (Một triệu năm trăm ngàn đồng); T thắng được 750.000đ (Bảy trăm năm mươi ngàn đồng); T thua 400.000đ (Bốn trăm ngàn đồng); T thua 1.000.000đ (Một triệu đồng); V thua 600.000đ (Sáu trăm ngàn đồng). Khi H vẫn đang làm cái và Đào Trí H, Nguyễn Hùng T, Nguyễn Thị T, Ngô Thị B, Nguyễn Phi H, Nguyễn Thị Khánh V, Nguyễn Thị Hữu T và Nguyễn Văn T cùng một số đối tượng khác đang tham gia đánh thì bị lực lượng chức năng phát hiện và bắt quả tang.
Lực lượng chức năng đã lập biên bản và tạm giữ tại chiếu bạc số tiền 6.100.000đ (Sáu triệu một trăm ngàn đồng), 01 bộ dụng cụ dùng để chơi “Xóc đĩa” gồm: 01 chén bằng sành sứ, 01 cái đĩa bằng sành sứ, 04 tờ giấy tròn đường kính 02cm được cắt ra từ gói thuốc lá Hero có 02 màu xanh và màu trắng, 02 tấm bạt nhựa màu xanh- cam. Ngoài ra còn tạm giữ một số điện thoại di động, xe mô tô và tiền trên người của các đối tượng tham gia đánh bạc đồng thời đưa tất cả các đối tượng cùng tang vật về trụ sở làm việc. Tại đây Nguyễn H, Đào Trí H, Nguyễn Hùng T, Nguyễn Thị T, Ngô Thị B, Nguyễn Phi H, Nguyễn Thị Khánh V, Nguyễn Thị Hữu T và Nguyễn Văn T đã khai nhận cùng các đối tượng khác đánh bạc thắng thua bằng tiền dưới hình thức “Xóc đĩa”.
Cơ quan điều tra đã chứng minh được số tiền tạm giữ trên người Nguyễn H, Đào Trí H, Nguyễn Hùng T, Nguyễn Thị T, Ngô Thị B, Nguyễn Phi H, Nguyễn Thị Khánh V, Nguyễn Thị Hữu T và Nguyễn Văn T dùng để đánh bạc là 41.537.000đ. Tổng số tiền các con bạc dùng để đánh bạc với nhau là 47.637.000đ (Bốn mươi bảy triệu sáu trăm ba mươi bảy nghìn) Tại bản án số 20/2019/HSST ngày 10/6/2019 của Tòa án nhân dân thị xã B quyết định:
Tuyên bố các bị cáo Nguyễn H (Ty hiệu), Đào Trí H (H Bảy Viễn), Nguyễn Hùng T (Tý T), Nguyễn Thị T (T), Ngô Thị B, Nguyễn Phi H, Nguyễn Thị Khánh V, Nguyễn Thị Hữu T và Nguyễn Văn T (T Vận) phạm tội Đánh bạc.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; Điều 17; Điều 38; Điều 50; Điều 58; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Hùng T (Tý T): 01 năm 03 tháng tù, tính từ ngày thi hành án, được trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam (từ 21/12/2018 đến 01/02/2019) Căn cứ khoản 5 Điều 65 Bộ luật hình sự: Buộc bị cáo T chấp hành hình phạt 02 năm tù tại Bản án hình sự số 43/2018/HSST của Tòa án nhân dân thị xã B ngày 10/9/2018, được trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam (từ 24/4/2018 đến 11/5/2018) Căn cứ khoản 2 Điều 56 Bộ luật hình sự: Tổng hợp hình phạt chung đối với bị cáo Nguyễn Hùng T (Tý T) là 03 năm 03 tháng tù, được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam (từ 24/4/2018 đến 11/5/2018 và từ 21/12/2018 đến 01/02/2019) Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; Điều 17; Điều 38; Điều 50; Điều 58; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Đào Trí H (H bảy viễn): 01 năm tù, tính từ ngày thi hành án, được trừ thời hạn tạm giữ tạm giam (từ 21/12/2018 đến 01/02/2019) Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; Điều 17; Điều 38; Điều 50; Điều 58; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Phi H: 10 tháng tù, tính từ ngày thi hành án, được trừ thời hạn tạm giữ tạm giam (từ 21/12/2018 đến 01/02/2019) Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; Điều 17; Điều 38; Điều 50; Điều 58; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T (T Vận): 07 tháng tù, tính từ ngày thi hành án, được trừ thời hạn tạm giữ tạm giam (từ 21/12/2018 đến 01/02/2019) Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định hình phạt đối với Nguyễn H, Nguyễn Thị T (T), Ngô Thị B, Nguyễn Thị Khánh V, Nguyễn Thị Hữu T, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Ngày 18/6/2019, Nguyễn Hùng T làm đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 22/6/2019, Đào Trí H và Nguyễn Phi H làm đơn kháng cáo xin hưởng án treo, Nguyễn Văn T làm đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa:
- Bị cáo T và bị cáo T giữ nguyên kháng cáo; bị cáo H và bị cáo H thay đổi nội dung kháng cáo từ kháng cáo xin hưởng án treo thành xin được giảm nhẹ hình phạt.
- Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm về hình phạt đối với các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo đều công nhận bản án sơ thẩm tuyên bố các bị cáo phạm tội “Đánh bạc” là có căn cứ, đúng pháp luật.
[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy:
Tại Tòa án cấp sơ thẩm, các bị cáo đều được xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, bị cáo H và T được hưởng thêm tình tiết “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng cho các bị cáo là phù hợp. Tuy nhiên, xét tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo H, H và T cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới là các bị cáo là lao động chính trong gia đình, có xác nhận của chính quyền địa phương. Còn đối với bị cáo T, do bị cáo cung cấp được chứng cứ thể hiện bị cáo đang phải điều trị bệnh rối loạn nhân cách và hành vi thực tổn do Bệnh viện pháp y tâm thần trung ương Biên Hòa chỉ định. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do đó, để thể hiện sự khoan hồng của pháp luật, Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo để các bị cáo sớm trở về cộng đồng để có điều kiện giúp đỡ gia đình và điều trị sức khỏe.
[3] Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước là có căn cứ một phần nên được Hội đồng xét xử chấp nhận một phần.
[4] Án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo của các bị cáo được chấp nhận nên các bị cáo không phải chịu.
[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
Chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo Đào Trí H (H Bảy Viễn), Nguyễn Hùng T (Tý T), Nguyễn Phi H và Nguyễn Văn T (T Vận).
Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 20/2019/HS-ST ngày 10/06/2019 của Tòa án nhân dân thị xã B, tỉnh Bình Phước về phần hình phạt đối với các bị cáo.
Tuyên xử:
Tuyên bố các bị cáo Đào Trí H (H Bảy Viễn), Nguyễn Hùng T (Tý T), Nguyễn Phi H và Nguyễn Văn T (T Vận) phạm tội “Đánh bạc”.
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; Điều 17; Điều 38; Điều 50; Điều 58; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;
Xử phạt bị cáo Đào Trí H (H Bảy Viễn) 06 (sáu) tháng tù, thời gian tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án, được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/12/2018 đến ngày 01/02/2019.
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; Điều 17; Điều 38; Điều 50; Điều 58; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Hùng T (Tý T) 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án, được trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam từ 21/12/2018 đến 01/02/2019.
Căn cứ Điều 56 Bộ luật hình sự: Buộc bị cáo Nguyễn Hùng T chấp hành hình phạt 02 năm tù tại Bản án hình sự số 43/2018/HSST của Tòa án nhân dân thị xã B ngày 10/9/2018. Tổng hợp hình phạt chung của 02 bản án, buộc bị cáo Nguyễn Hùng T (Tý T) phải chấp hành 03 (ba) năm tù, được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ 24/4/2018 đến 11/5/2018 và từ ngày 21/12/2018 đến 01/02/2019.
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; Điều 17; Điều 38; Điều 50; Điều 58; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Phi H 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án, được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/12/2018 đến ngày 01/02/2019.
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; Điều 17; Điều 38; Điều 50; Điều 58; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T (T Vận) 04 (bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án, được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/12/2018 đến ngày 01/02/2019.
- Án phí hình sự phúc thẩm: các bị cáo không phải chịu.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 74/2019/HS-PT ngày 18/09/2019 về tội đánh bạc
Số hiệu: | 74/2019/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bình Phước |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/09/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về