Bản án 74/2018/HNGĐ-ST ngày 28/08/2018 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAO LÃNH, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 74/2018/HNGĐ-ST NGÀY 28/08/2018 VỀ LY HÔN

Ngày 28 tháng 8 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 362/2018/TLST-HNGĐ, ngày 12 tháng 6 năm 2018 về “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 196/2018/QĐXXST-HNGĐ, ngày 24 tháng 7 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên toà số 140/2018/QĐST-HNGĐ, ngày 09 tháng 8 năm 2018 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Trần Ngọc G, sinh năm 1996 (vắng mặt). Địa chỉ: ấp B, xã Mỹ Đ, huyện Tháp M, tỉnh Đồng Tháp. Bị đơn: Trần Minh Q, sinh năm 1994 (vắng mặt).

Địa chỉ: khóm Mỹ T1, thị trấn Mỹ T2, huyện Cao L, tỉnh Đồng Tháp.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 15/5/2018, nguyên đơn là chị Trần Ngọc G trình bày:

- Về hôn nhân: Chị G và anh Q có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân thị trấn Mỹ T2 ngày 08/5/2015.

Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng sau đó nảy sinh mâu thuẫn. Nay chị G yêu cầu được ly hôn với anh Q.

- Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Trần Gia K, sinh ngày 01/6/2016, hiện do chị G nuôi dưỡng. Khi ly hôn, chị G yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung, không yêu cầu anh Q cấp dưỡng.

- Về chia tài sản khi ly hôn và nợ chung: Vợ chồng không có tài sản và nợ chung nên không yêu cầu giải quyết.

Các tài liệu, chứng cứ của vụ án:

- Trích lục kết hôn số 255/TLKH-BS, ngày 15/5/2018 của Ủy ban nhân dânthị trấn Mỹ T2, huyện Cao L, Đồng Tháp (bản chính);

- Giấy khai sinh của Trần Gia K (bản sao chứng thực).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Về tố tụng:

[1] Căn cứ vào nội dung đơn khởi kiện của chị G và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án thể hiện quan hệ pháp luật đang tranh chấp là về ly hôn và nuôi con. Địa chỉ của bị đơn tại huyện Cao Lãnh nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cao Lãnh quy định tại khoản 1, Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a, khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Chị Trần Ngọc G là nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt. Anh Trần Minh Q là bị đơn đã được triệu tập tham gia phiên tòa đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Vì vậy, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung:

 [3] Về hôn nhân: Theo lời trình bày của chị G thì chị và anh Q đã tổ chứcđám cưới năm 2015. Theo Trích lục kết hôn số 255/TLKH-BS, ngày 15/5/2018 của Ủy ban nhân dân thị trấn Mỹ T2 thì chị G và anh Q có đăng ký kết hôn vào ngày 09/9/2015. Như vậy có căn cứ xác định hôn nhân của chị G và anh Q là hợp pháp. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng sau đó nảy sinh nhiều mâu thuẫn, không thể hàn gắn. Nay chị G yêu cầu ly hôn vì cho rằng hôn nhân không thể tiếp tục vì vợ chồng hiện không còn chung sống với nhau nữa. Về phía anh Q là bị đơn đã được tống đạt hợp lệ các thông báo của tòa án nhưng không có ý kiến, không tham gia các phiên họp, phiên hòa giải và phiên tòa. Như vậy, có căn cứ nhận định anh Q không có thiện chí hàn gắn tình cảm, mâu thuẫn giữa vợ chồngnhư chị G trình bày là có thật và đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị G.

[4] Về nuôi con: Chị G và anh Q có 01 con chung tên Trần Gia K, sinh ngày 01/6/2016, hiện chị G nuôi dưỡng. Khi ly hôn thì chị G yêu cầu được tiếp tục nuôi con. Xét thấy, hiện cháu K đang chung sống với chị G ổn định và chưa đủ 36 tháng tuổi. Phía anh Q lại không có ý kiến về việc nuôi con. Do đó, việc chị G yêu cầu được tiếp tục nuôi con sau khi ly hôn là phù hợp theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên chấp nhận.

[5] Anh Q không trực tiếp nuôi con chung nên có quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không ai được cản trở.

 [6] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị G được tiếp tục nuôi con sau khi ly hôn nên có quyền yêu cầu anh Q cấp dưỡng. Tuy nhiên, chị G không đưa ra yêu cầu này nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

[7] Về chia tài sản khi ly hôn và nợ chung: Chị G trình bày không có tài sản và nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ điểm a, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thì chịG phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điều 28, 35, 39, 227 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 56, 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày30/12/2016.

Chấp nhận yêu cầu của chị Trần Ngọc G.

1. Về hôn nhân: Chị Trần Ngọc G được ly hôn với anh Trần Minh Q.

2. Về nuôi con: Chị Trần Ngọc G được tiếp tục nuôi con chung tên Trần Gia K, sinh ngày 01/6/2016. Anh Trần Minh Q không phải cấp dưỡng nuôi con do chị G không yêu cầu.

Anh Q có quyền, nghĩa vụ thăm nom con không ai được cản trở.

3. Về chia tài sản khi ly hôn và nợ chung: Không có tài sản và nợ chung nênHội đồng xét xử không giải quyết.

4. Án phí dân sự sơ thẩm: Chị Trần Ngọc G phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) mà chị G đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000280, ngày 11/6/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.

Đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

286
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 74/2018/HNGĐ-ST ngày 28/08/2018 về ly hôn

Số hiệu:74/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cao Lãnh - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về